NGUYỄN DU QUA KÊ KHANG CẦM ĐÀI, & LƯU LINH MỘ

TS Phạm Trọng Chánh

Nguyễn Du trên đường đi sứ đi qua Kê Khang Cầm Đài và tại Hứa Đô, Hà Bắc trong khoảng thời gian 21-9 đến 4-10 năm Quý Dậu (1813), nơi đây thi hào xúc cảm viết bài Kê Khang Cầm Đài và Lưu Linh Mộ.
    Kê Khang (223-262) tên Thúc Dạ, người đời Tấn ở đất Trất, nay thuộc huyện Túc, tỉnh An Huy, dòng họ Hề, có tài liệu cho ông dòng họ Khuê đất Thượng Ngu, huyện Cối Kê, nay huyện Thiên Hưng, tỉnh Chiết Giang, vì có sự thù oán, ông lánh nạn đến Kê Sơn, do đó tự đặt hiệu là Kê Khang. Ông là một trong Trúc Lâm Thất Hiền : gồm Nguyễn Tịch (210-263) Kê Khang (223-263) Lưu Linh (221-300) Sơn Đào (205-283) Hướng Tú (221-300) Vương Nhung (234-305), Nguyễn Hàm ( ?). 
Kê Khang còn là  rể của tôn thất Tào Ngụy, từng làm quan đến chức Trung Tán đại phu. Ông thường cùng bạn đi chơi uống rượu ở rừng Trúc. Sớm mồ côi, Kê Khang là người đa tài, đa nghệ, thân hình cao lớn, có phong nghi thiên chất tự nhiên, tính tình điềm đạm, ít ham muốn, khoan dung giản dị. Kê Khang thông tuệ học rộng,  tự học tự đọc sách mà giỏi, thích học thuyết Lão Trang, ông nói : « Ba ngày không đọc Đạo Đức Kinh, thì miệng thấy hôi ». Kê Khang đề cao tự nhiên, tính tình chính trực, thích đàn rượu hái thuốc, du chơi sơn trạch. Ông trước tác Thích Tứ Luận, Thanh Vô  Ai Lạc Luận. Lấy chủ nghĩa tự nhiên bài bác học thuyết Nho Giáo, quan niệm nhân cách con người quân tử được không phải lấy lễ giáo bên ngoài mà uốn nắn con người, đẽo gọt thiên nhiên. Ông cũng chống lại tất cả các suy luận tri thức về phải trái, đúng sai. Ông chỉ cốt làm sao được Tâm hư để noi theo tánh mà sống, vì tự nhiên chính là đạo lý.

Sách Thế thuyết kể : Chung Hội (225-264) làm quan, làm tướng, ái mộ Kê Khang, một ngày Chung Hội cùng vài người thân tín đến viếng Kê Khang. Sở thích Kê Khang là rèn đồ kim khí. Chung Hội đến thấy Kê Khang đang rèn dưới gốc cây lớn. Hướng Tú giúp Kê Khang thổi ống bể. Kê Khang tiếp tục rèn, như không có khách đến. Chung Hội bẻ mặt đứng nhìn một lát rồi bỏ đi.
Kê Khang hỏi :- Đã nghe gì mà tới ? Đã thấy gì mà đi ?
Chung Hội đáp :  - Tới vì cái đã nghe, đi vì thấy cái đã thấy.
Người đời Tấn thích cái vẻ đẹp thể chất và tinh thần Kê Khang, người ta sánh ông với núi ngọc, với cây tùng. Có lẽ vì vậy mà Chung Hội mới nói đã nghe, đã thấy.
Thơ Kê Khang  khí vận tuấn thanh, như mùa thu trong trẻo, khác với thơ Nguyễn Tịch thâm thúy, tài hoa như mùa xuân thơm ngát.:
Mắt tiễn hồng bay,
Tay gầy năm dây,
Cúi ngữa tự đắc,
U huyền thích thay.
Nguyên tác:
Mục tống hồng phi,
Thủ huy ngũ huyền.
Phủ ngưỡng tự đắc,
Du tâm thái huyền.
Trước kia có một hôm Kê Khang chơi đất Lạc Tây, trọ ở Hoa Dương Đình, đêm ngồi khảy đàn, chợt có một người khách đến tự xưng mình là người thời cổ. Rồi cùng Kê Khang bàn luận âm luật, lời lẽ rành rọt, thấu đáo lắm, nhân đó ông khách truyền cho Kê Khang khúc nhạc Quảng Lăng Tán. Dặn Kê Khang không truyền cho ai khác.
    Kê Khang làm quan rồi từ quan. Tư Mã Chiêu soán ngôi nhà Ngụy Tào, lập nên nhà Tấn trừ khử kẻ nghịch. Huyện Đông Bình có Lữ An ngưỡng mộ Kê Khang tìm đến ra mắt, hai người kết tâm giao. Chẳng ngờ Lữ An có người anh họ tên Lữ Tốn, vốn bộ hạ thân tín Tư Mã Chiêu, ỷ thế lộng hành, thấy vợ Lữ An xinh đẹp muốn chiếm đoạt, bắt Lữ An hạ ngục. Vì tình bạn Kê Khang minh oan, cũng bị bắt giam. Kê Khang vốn con rễ tôn thất nhà Ngụy, họ muốn trừ tuyệt nên dựng chuyện Kê Khang khinh vua Thang, vua Vũ, Khổng Tử, chống lại thuyết Danh Giáo họ Tư Mã dùng Nho Giáo để thống trị thiên hạ là có ý làm loạn, nên bắt tử hình.
Trước khi hành hình ở chợ Đông, Kê Khang quay nhìn bóng mặt trời cầm đàn gảy khúc Quảng Lăng Tán mà nói rằng :
-« Trước kia khúc Quảng Lăng Tán có người tên Viên Hiếu Nê thường theo ta để học, nhưng ta không truyền được, nay khúc Quảng Lăng Tán từ nay mất đi ». Ông bị giết lúc 40 tuổi. Khúc Quảng Lăng Tán kể chuyện : Cha Nhiếp Chính vì Hàn Vương mà đúc kiếm, do trễ ngày giao kiếm nên bị thảm sát. Nhiếp Chính trả thù cho cha, luyện đàn 10 năm nổi tiếng với tiếng đàn, được Hàn Vương triệu vào đàn cho nghe. Nhiếp Chính nhân cơ hội này, giết chết Hàn Vương rồi tự hủy dung nhan, tự tử để khỏi liên lụy đến người thân. Người đời sau cảm khái soạn nên khúc Quảng Lăng Tán. Sáu trăm năm sau Kê Khang phát triển khúc này thành khúc nhạc tuyệt luân. Năm 262 Kê Khang đàn khúc này lần cuối trước khi bị chặt đầu giữa chợ. Sách Thái Lung viết : ‘Cầm Tháo tức  khúc Nhiếp Chính thích Hàn Vương ’. Mẹ Nhiếp Chính không chịu nhục, chết cùng con.
    Nguyễn Du viết : Sách xưa ghi dấu tích đây là Đài cầm của Kê Khang. Người chết đàn mất, đài cũng bỏ hoang. Bảy dây văn vũ cuối cùng đã im bặt. Đông Tấn, Tây Tấn cũng đã mất tăm rồi. Đến nay cái bất hủ của ông là tính trẻ con. Sau đây ai là người đến với làng say . Ông là bạn thân  với Lưu Linh. Than thở cho tiếng đàn Quảng Lăng đã dứt.  Bài nhạc mới của Tỳ bà phân nửa là điệu Hồ Khương.

ĐÀI GẢY ĐÀN KÊ KHANG
Cầm đài chuyện cũ nhớ Kê Khang,
Người khuất đàn phai, đài bỏ hoang.
Văn vũ bảy dây im lặng tiếng,
Đông Tây hai Tấn luống mơ màng.
Trẻ trung bất hủ còn lưu tiếng,
Bợm nhậu ai đây đến nhập làng.
Xót nỗi Quảng Lăng đà bặt tiếng,
Tỳ bà nửa điệu ấy Hồ Khương.
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
KÊ KHANG CẦM ĐÀI
Cầm đài cổ tích ký Kê Khang,
Nhân tử cầm vong đài diệc hoang.
Văn võ thất huyền chung tịch tịch,
Đông Tây lưỡng Tấn diệc mang mang.
Chí kim bất hủ duy đồng tính,
Thử hậu hà nhân đáo túy hương ?
Thán tức Quảng Lăng huyền tuyệt hậu,
Tỳ bà tân phổ bản Hồ Khương.
    Trong Trúc Lâm Thất Hiền, Nguyễn Du có viết bài Lưu Linh Mộ và bài Hành Lạc Từ có nhắc đến Vương Nhung, và trong bài Phúc Thực Đình có nhắc đến Nguyễn Tịch mắt xanh khi gặp người tri kỷ.  Nguyễn Du còn thông thạo đàn Nguyệt tức đàn Nguyễn Cầm do Nguyễn Hàm chế ra. Nguyễn Hàm là cháu Nguyễn Tịch, không rõ năm sinh năm mất. Bài Long Thành Cầm Giả Ca : Giai nhân  Thăng Long, chẳng biết rõ tính danh Thạo đàn Nguyễn Cầm, nên trong thành gọi nàng Cầm là tên. Nguyễn Du là một người tinh thông về âm nhạc. Nguyễn Hành khi nói đến chú đã viết : Giang hồ Long miếu hai điều đủ, Thi  Họa, Cầm, Thư bốn nghệ tinh. Nguyễn Du có cuộc đời đi khắp sông hồ (Giang Nam, Giang Bắc, Ngũ Đại Hồ..) thời tuổi trẻ và thời đi sứ  và một đời làm quan  các nơi  (Phù Dung, Thường, Tín, Quảng Bình) và tại triều đình Phú Xuân. Bốn nghề chơi : Cầm, Thư,  Thi, Họa đều tinh xảo.
LƯU LINH (220-300) tự Bá Luân người đất Bái, thân hình xấu xí, tính tình phóng túng, coi nhỏ vũ trụ, xem muôn vật làm tâm, lạnh nhạt ít lời, không quen giao du. Nhưng tương đắc với Nguyễn Tịch và Kê Khang, cùng các bạn tương ngộ dắt tay nhau vào rừng trúc, nên được người đời xếp vào nhóm Trúc Lâm Thất Hiền. Lưu Linh thường ngồi xe đi chơi uống rượu, sai người vác mai theo, sau bảo rằng : « Chết ở đâu thì chôn ở đó. » Ông xem thường thân thể đến thế. Lưu Linh uống rượu nổi tiếng, uống bao nhiêu cũng không say.
    Giai thoại kể rằng : Một hôm ông bảo vợ đi lấy rượu. Vợ ông đổ rượu đi và đập bể vò rượu. Vợ khóc mà can rắng : « (Ông uống rượu nhiều quá, không phải là cái đạo nhiếp sinh, ông phải bỏ bớt rượu đi. ( Nhiếp sinh là đạo lấy tinh thần mà nuôi sức khỏe)
    Lưu Linh nói : Phải, ta không thể tự cấm được, phải cầu quỷ thần lên để thề nguyện mới được. Vậy phải đủ rượu thịt để làm lễ chứ. Vợ nghe lời sắm sửa đủ thứ. Xong Lưu Linh quỳ xuống khấn rằng :
Trời sanh Lưu Linh,
Lấy rượu làm danh.
Mới uống một vò,
Năm đấu giải tỉnh.
Lời nói đàn bà,
Cẩn thận đừng nghe.
Khấn xong thì đem rượu thịt ra ăn uống li bì, say say, tỉnh tỉnh.
Lưu Linh mê man, tỉnh tỉnh, nhưng khi gặp việc thì ứng biến chẳng sai. Ít khi làm văn thơ nhưng có bài Tửu đức tụng, nổi danh ca tụng người uống rượu.
TỬU ĐỨC TỤNG
Chàng ta vốn là người cao quý,
Cả đất trời chỉ một cơn say.
Vĩnh hằng một thoáng mây bay,
Trời trăng là cửa sổ nơi dưới nhà.
Tám sa mạc chỉ là sân rộng,
Chàng ra đi chẳng đọng dấu đời.
Không nương nhà ở một nơi,
Đất làm chiếu trải, trời coi làm nhà.
Chàng đeo đuổi cuộc đời phóng đãng,
Dừng lại khi nâng chén ôm bầu.
Khi đi mang rượu mang vò,
Rượu là tất cả, chẳng trò gì hơn.
Có chúa trẻ và quan cáo lão,
Nghe nói năng những thói quen nhà.
Bác bài cách sống của ta,
Vung tay xắn áo, thu chà  nắm tay.
Mắt dữ tợn hàm răng nghiến chặt
Họ dạy ta phép tắc xã giao.
Phải rằng thế nọ, thế kia,
Ù tai tiếng nói như là bầy ong.
Nhưng lúc đó ông kia thấy rượu,
Cầm cái vò rót chén nâng lên.
Nốc cạn, râu vuốt, thẳng chân,
Lấy men làm gối, rượu tăm gối dài.
Chẳng suy nghĩ, chẳng là chi tá,
Hạnh phúc chàng trọn vẹn mười phân.
Thoát say, thoát tỉnh xoay vần,
Lắng tai chẳng thấy chàng lăn sấm rền.
Trong mắt chẳng thấy hình núi Thái,
Không lạnh căm, nóng bức xé da.
Thành công cũng chẳng thấy xa,
Chẳng còn ham muốn nệ hà đam mê.
Mắt nhìn xuống đám đông như kiến,
Giống như bèo Giang Hán nổi trôi.
Cao sang kia đứng cạnh tôi,
Chỉ loài ong nọ hay thời sâu kia.
(Nhất Uyên dịch thơ).
    Khi đi qua mộ Lưu Linh, Nguyễn Du viết : Chàng họ Lưu chẳng làm nên trò trống gì. Vác cuốc rêu rao, chết đâu chôn đó. Trong cơn say đã có thể coi vạn vật như nhau. Lúc chết hà tất phải lo nghĩ đến hình hài. Ngôi mộ cổ nghìn năm đầy gai góc. Đường quan muôn dậm nhiều gió bụi. Sao ta lại đem trong sạch tỉnh táo nhìn đời. Để phải như cánh bèo trôi giạt rất đáng thương. Câu kết Nguyễn Du lập lại câu cuối bài Tửu Đức Tụng của Lưu Linh.
MỘ LƯU LINH
Trò trống ra gì, chàng họ Lưu,
Chết đâu chôn đó khéo rao rêu.
Khi say muôn vật cùng như thế,
Lúc chết thân kia chớ nghĩ nhiều.
Mộ cổ nghìn năm gai góc mọc,
Đường quan muôn dậm gió tiêu điều.
Tỉnh đem trong sạch nhìn chi đó,
Tan tác thương thay một cánh bèo.
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
LƯU LINH MỘ
Lưu gia chi tử bất thành tài,
Hà sáp đương ngôn tử tiện mai.
Túy lý dĩ năng tề vạn vật,
Tử thời hà tất niệm di hài ?
Thiên niên cổ mộ trường kinh cúc,
Vạn lý đạo quang đa phong ai.
Hà dĩ thanh tinh khan thế sự,
Phù bình nhiễu nhiễu cánh kham ai.
    Bài Hành Lạc Từ II. Nguyễn Du có nhắc đến Vương Nhung, một trong Trúc Lâm Thất Hiền: Vương Nhung nhà giàu ruộng vườn khắp các châu, nhưng lại là tay biển lận, ngày nào cũng cầm thẻ ngà trong tay để tính toán, trong nhà có cây mận rất ngon, bán quả sợ người ta được giống nên dùi nát hột mới bán. Vương Nhung là người có câu nói nổi tiếng được nhắc trong Xuân Đường Đàm Thoại của Tam Nguyên Vị Xuyên Trần Bích San và bài tựa Truyện Kiều của Mộng Liên Đường: ”Người thượng trí vong tình, kẻ hạ ngu bất cập tình, mối tình chung đúc chính là ở bọn ta.” Nguyên Vương Nhung có người con nhỏ tuổi chết, người bạn đển bảo, cháu còn nhỏ có gì mà khóc đến thế. Vương Nhung nói câu này và hai người cùng khóc.
Anh có thấy:
Ông Vương Nhung tự tay cầm bàn ngà,
Ngày ngày tính toán lòng chưa vui sướng,
Đài Tam công đổ, cây mận ngon tàn,
Bạc vàng tiêu tán người khác hưởng.
Nguyên tác:
Quân bất kiến:
Vương Nhung nha trù thủ tự tróc,
Nhật nhật cối kê thường bất túc.
Tam công đài khuynh hảo lý tử,
Kim tiền tán tác tha nhân túc.
Bài Phúc Thực Đình. Nguyễn Du có câu thơ nhắc đến Nguyễn Tịch:
Hợp bạn khó tìm người mắt biếc,
Gỡ đầu thêm rối cõi lòng ta.
Tụ đầu nan đắc thường thanh mục,
Lý phát đương tri vị bạch tâm.
Nguyễn Tịch gặp người tri kỷ như Kê Khang thì mắt xanh, gặp kẻ tục thì mắt trắng.
    Cũng như bao người xưa chịu ảnh hưởng của Tam Giáo: Phật, Nho, Lão. Ở Đạo Phật Nguyễn Du chọn tư tưởng Thiền Tông, Ngài Huệ Năng, bài bác chữ nghĩa mơ hồ Kinh Kim Cương chỉ để bọn ngu tăng đời sau đọc điếc tai người ta, trong bài Phân Kinh Thạch Đài. Ở Khổng Giáo, Nguyễn Du chỉ nhắc đến Mạnh Tử qua Cây Liễu Xưa đền Mạnh Tử. Nguyễn Du không đi thăm khu di tích Khổng Tử 30 Km gần đó cũng không nhắc đến một lời Thánh Khổng. Ở đạo Lão Nguyễn Du đi thăm Hoàng Hạc Lâu, Nhạc Dương Lâu nơi có di tích Phí Vân Tiên, Lã Đồng Tân. Nguyễn Du bài bác Vương Nhung, người  biển lận, giàu có làm cả đời chỉ cho người khác hưởng. Nguyễn Du có thiện cảm với Kê Khang trong Trúc Lâm Thất Hiền, tiếc cho khúc Quảng Lăng Tán bị thất truyền, nhạc đàn tỳ bà thời Nguyễn Du phân nửa là điệu nhạc của người Hồ Khương. Nguyễn Du thương xót cho Lưu Linh chỉ uống rượu, chẳng ra trò trống gì: Tỉnh đem trong sạch nhìn chi đó, Tang tác thương thay một cánh bèo. Nguyễn Du không nhắc trực tiếp đến đến  Lão , Trang. Bài Hành Lạc Từ tư tưởng Lão Trang bàng bạc với quê hương Hồng Lĩnh, với thú vui làm người đi săn núi Hồng.
Paris 22-7-2016
PHẠM TRỌNG CHÁNH
*Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne.