Phạm Cao Dương
Trước nạn Trung Quốc xâm lấn càng ngày càng rõ rệt:
Đọc Lại Những Bài Viết Của Các Cố Vấn Tầu Ở Việt Nam
Trong Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất (1946 - 1954):
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã để mất chủ quyền của đất nước từ bao giờ?
Tập tài liệu này dày 280 trang qua thư điện tử và gấp đôi
tức 560 trang theo khổ sách in nhỏ, gồm tổng cộng 10 bài, thêm hai trang
“Lời Cuốí Sách”. Tất cả đều ít nhiều được phổ biến trên một vài trang
mạng ở Hải Ngoại nhưng không thường trực. Tác giả đầu tiên là La Quý Ba,
ngưòi được Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc bí mật cử sang Việt Nam
đầu năm 1950 làm đại diện liên lạc giữa Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung
Quốc và Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương, sau này là Đại Sứ đầu tiên
của Cộng Sản Trung Quốc ở Việt Nam. Bài viết của La Qúy Ba này ngắn và
có tinh cách tổng quát, được viết để tưởng nhớ Mao Trạch Đông. Tác giả
thứ hai là Trương Quảng Hoa. Ông này xuất thân làm công tác ở văn phòng
cố vấn quân sự của Đoàn, lo về thống kê nên nắm vững tình hình giao
nhận vật tư để báo cáo cho lãnh đạo của Đoàn. Trương Quảng Hoa có cả
thảy bốn bài, đồng thời giữ vai trò sửa chữa và hiệu đính, kể cả sửa
chữa và hiệu đính cho phần “Đại Sử Ký” tức phần niên biểu các sự kiện
chính ở cuối sách trong đó có bài viết tổng quát và một bài viết về vai
trò có tính cách quyết định của Tướng Trần Canh trong trận Đông Khê -
Thất Khê. Chủ trương của Trần Canh cũng như của các cố vấn Tầu đối
nghịch với chủ trương ban đầu của các chỉ huy trưởng Việt Minh, trong đó
có các Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 102 Nguyễn Hữu An và Trung Đoàn 88
Thái Dũng. Người có bài thứ ba là Vu Hoá Thuần, víết về Vi Quốc Thanh
trong cả hai trận Đông Bắc và Điện Biên Phủ, một vai trò cũng quyết định
giống như vai trò của Trần Canh trong chiến dịch Đông Bắc. Vương
Nghiên Tuyền nguyên ở trong ban tham mưu của Tướng Trần Canh và là cố
vấn cho Đại Đoàn 308 trong thời chiến tranh chống Pháp, năm 1956 lại trở
sang Vịêt nam làm tổ trưởng Tổ Chuyên Gia Quân Sự cho đến năm 1957.
Ông này có hai bài dài và coi như nòng cốt của tập sách. Tiếp theo là
các bài của Độc Kim Ba và của Như Phụng Nhất mà tiểu sử không được ghi
dù là gián tiếp. Cuối cùng là một bảng niên biểu liệt kê theo ngày
tháng tiến trình hoạt động của Đoàn Cố Vấn Trung Quốc từ ngày được thành
lập, từ tháng Giêng và tháng Hai năm 1950 cho đến trung tuần tháng Ba
năm 1956.
Nói tới Chiến Tranh Pháp - Việt Minh (1946 - 1954) không ai
là không biết tầm quan trọng của viện trợ của Cộng Sản Trung Quốc cho
Cộng Sản Việt Nam kể từ sau khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc chiếm được toàn
thể Trung Hoa Lục Địa, hay chậm hơn và đúng hơn chút nữa là từ trung
tuần tháng 8 năm 1950, khi hai đoàn cố vấn quân sự, một do Vi Quốc Thanh
và Đặng Dật Phàm cầm đầu từ Quảng Tây và một do Trần Canh hướng dẫn từ
Vân Nam đến bộ chỉ huy tiền phương của Việt Minh ở Quảng Uyên, Cao Bằng
và được Võ Nguyên Giáp và Trần Đăng Ninh đón tiếp và thuyết trình. Đây
là thời điểm then chốt. Nó mở đầu cho một giai đoạn mới trong lịch sử
Chiến Tranh Việt Minh - Pháp hay Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất,
trong đó viện trợ của Trung Quốc đóng vai trò quyết định. Sau thời điểm
này quân đội của Tướng Giáp không còn phải “chiến đấu trong vòng vây”,
không còn chỉ đánh du kích nữa mà đã chuyển sang vận động chiến rồi sau đó là công kiên chiến
để đánh bại địch quân của họ, theo sách lược của Mao Trạch Đông và kinh
nghiệm của Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc. Hồi ký của các nhà lãnh đạo
Việt Minh trong đó có Tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư Lệnh Quân Đội, có
Đặng Văn Việt, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 174, con Hùm Xám của Đường
Số 4, đều nói tới nguồn viện trợ duy nhất và thiết yếu này nhưng nói
tương đối ít. Những chiến thắng của Việt Minh từ các trận Đông Khê và
Cao Bằng trong chiến dịch Việt Bắc tới trận Điện Biên Phủ theo các chỉ
huy người Việt này là do sự hoạch định chiến lược và chiến đấu của chính
người Việt. Các cố vấn Trung Quốc trong tập Ghi Chép Thực kể
trên đã gần như nói ngược lại. Không những thế họ còn viết nhiều hơn
nữa, không riêng về quân sự như cung cấp dư dả súng ống, đạn dược, quân
trang, quân dụng, soạn thảo tài liệu huấn luyện, tái tổ chức lại quân
đội với chủ trương đặt nặng vai trò của chính trị trong quân đội, thành
lập và võ trang những đại đơn vị mới như các Đại Đoàn 316, 320, 325,
351 và một trung đoàn công binh bên cạnh các đại đoàn 304, 308, 312 và
một số trung đoàn đã có từ trước, mà còn giúp Việt Minh giải quyết những
khó khăn về kinh tế, tài chánh, đặc biệt là về tiền tệ, lương thực để
Việt Minh từ thế gần như thụ động, bị bao vây trên nhiều mặt trận, sang
chủ động làm chủ chiến trường. Các cố vấn Tàu còn cho biết họ đã soạn
thảo các chiến lược và trực tiếp tham gia chiến trận cùng với quân đội
của Tướng Giáp từ đó đã giúp cho Cộng Sản Việt Nam toàn thắng.
Một cách tóm tắt, khi đọc tài liệu này ta có thể ghi nhận được những sự kiện sau đây:
Thứ nhất: Viện trợ của Trung Quốc cho Cộng Sản Việt Nam là
do Cộng Sản Việt Nam yêu cầu qua văn thư của Hồ Chí Minh và Trung Ương
Đảng Cộng Sản Đông Dương gửi Mao Trạch Đông và Trung Ương Đảng Cộng Sản
Trung Quốc. Sự kiện này đã xảy ra tiếp theo hai chuyến đi bí mật của Hồ
Chí Minh sang Bắc Kinh vào đầu tháng Giêng năm 1950 và vào mùa đông năm
1951. Lần đi thứ nhất, khi Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh thì Mao Trạch Đông
và Chu Ân Lai đã đi Moscow để ký Hiệp Ước Tương Trợ Đồng Minh Hữu Nghị
Trung-Xô từ trước nên họ Hồ chỉ được Lưu Thiếu Kỳ đón tiếp rồi sau đó
được Lưu Thiếu Kỳ thu xếp để sang Moscow. Câu hỏi được đặt ra là trước
khi đi Mao và Lưu có biết là Hồ sẽ sang Bắc Kinh hay không? Câu hỏi được
đặt ra nhưng câu trả lời phần nhiều là có. Nếu vậy tại sao hai người
lại không đợi Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh để rồi cùng đi? Câu trả lời
phần nào có thể được thấy nếu người ta theo dõi những gì đã xảy ra sau
đó. Thứ nhất là trong buổi tiệc do Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Cộng
Sản Liên Xô tổ chức để khoản đãi Hồ Chí Minh khi họ Hồ mới tới Moscow
tối ngày 6 tháng Hai năm 1950, Staline đã không đến dự và Staline chỉ
tiếp ông này nhiều ngày sau đó và tiếp ở phòng làm việc của mình với sự
có mặt của nhiều ngưới khác trong đó có cả Vương Gia Tường là đại sứ
Trung Quốc ở Liên Xô. Thứ hai là trong buổi tiếp tân chiêu đãi trọng thể
dành cho Mao Trạch Đông, Châu Ân Lai và toàn thể các đoàn viên phái
đoàn Trung Quốc, Hồ Chí Minh cũng được mời, có thể là không chính thức
vì chuyến đi của ông là bí mật. Lợi dụng cơ hội này và khi Staline rất
vui, Hồ Chí Minh đã ngỏ ý xin được ký một hiệp ước tương tự như hiệp ước
Trung-Xô Mao Trạch Đông đã ký với Staline trước đó. Staline đã từ chối.
Trương Quảng Hoa đã kể lại cuộc đối thoại giữa hai người như sau:
Staline rất vui, trong bữa tiệc luôn luôn trò chuyện với
khách. Hồ Chí Minh nắm lấy thời cơ này cười hỏi Staline: “Đồng chí còn
có chỉ thị gì nữa đối với công tác của Việt Nam chúng tôi không?”
Staline cười: “Tôi làm sao có thể chỉ thị cho đồng chí, đồng chí là Chủ
tịch nước, quan còn to hơn tôi mà!”
Hồ Chí Minh lại nói: “Các đồng chí đã ký hiệp ước với
Trung Quốc, nhân tôi ở đây, chúng tôi cũng muốn ký một hiệp ước!”
Staline nói: “Thế người ta hỏi đồng chí từ đâu ra? Chúng tôi giải thích
như thế nào?”
Hồ Chí Minh nói: “Điều đó rất dễ, đồng chí cho chiếc máy
bay chở tôi lượn một vòng trên trời, sau đó cho người ra sân bay đón
tôi, đưa một tin trên báo, không được sao?”
Staline cười lớn nói: “Đó là quá sức tưởng tượng đặc biệt của người phương Đông các anh” (trang 21).
Họ Trương ghi tiếp là “Rất nhiều người dự tiệc cũng đều
cười vang lên”. Chi tíết này chứng tỏ cuộc đối thoại giữa Hồ Chí Minh và
Staline là công khai trước mặt mọi người. Nhưng xét toàn bộ người ta
thấy Staline tỏ ra rất lạnh nhạt, không tôn trọng Hồ Chí Minh, đã mỉa
mai khi trả lời những câu hỏi nghiêm chỉnh và quan trọng của họ Hồ.
Không những thế Staline còn đem những đề nghị của Hồ ra làm trò cười
cho những người có mặt trong buổi chiêu đãi và thẳng thừng từ chối những
lời yêu cầu của họ Hồ, trong đó có đề nghị ký một hiệp định là điều ông
này rất mong muốn. Tại sao vậy? Theo Trương Quảng Hoa Staline lo lắng
Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc, là Ti Tô thứ hai. Nhưng
đọc kỹ chi tiết hơn, người ta thấy hai điều. Một là Staline có chủ
trương muốn Hồ Chí Minh đẩy sớm hơn và mạnh hơn cách mạng xã hội và kinh
tế thay vì chỉ lo đánh Pháp để sớm tiến tới chủ nghĩa vô sản và hai là
Staline đã cùng Mao Trạch Đông, và ngay cả trước đó không lâu, Lưu Thiếu
Kỳ trong một chuyến đi bí mật sang Nga, đã từng thảo luận và đồng ý với
nhau về vai trò viện trợ cho Cộng Sản Việt Nam của Trung Quốc rồi.
Đây là lý do chính và Hồ Chi Minh khi được các lãnh đạo Cộng Sản Trung
Quốc thu xếp cho sang Nga chỉ là để nghe một chuyện đã được sắp xếp
rồi. Riêng về cá nhân Hồ Chí Minh, xuyên qua cuộc đối thoại này, người
ta thấy phần nào bản chất thực tế, kiên nhẫn, chịu đựng, quyền biến đến
độ lì lợm, sẵn sàng dùng những biện pháp lừa dối như ông đã thường làm ở
Việt Nam của ông. Cuối cùng thì chuyến đi Liên Xô của Hồ Chí Minh hoàn
toàn thất bại, không giành được gì từ phía Liên Xô, không được Staline
coi trọng như Mao Trạch Đông để từ đây Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt
Nam phải nghe và hoàn toàn trông cậy vào viện trợ của Trung Quốc. Vận
mệnh của Đảng Cộng Sản Việt Nam nói riêng và vận mệnh của dân tộc Việt
Nam cũng như lãnh thổ Việt Nam nói chung, có thể đã bị quyết định ngay
từ chuyến đi của Hồ Chí Minh này. Nói như vậy là vì khi làm cố vấn bắt
buộc chuyên gia Trung Quốc phải nghiên cứu địa hình, địa diện, các cao
điểm chiến thuật, chiến lược, trục lộ giao thông cùng các tiềm năng khác
có thể khai thác... bằng chính tai mắt và khối óc của mình, chưa kể khi
họ vạch và làm đường vận chuyển khi khí giới, quân trang quân dụng được
vượt qua biên giới, chở sang cho Việt Minh. Các cao điểm chiến lược,
các cột mốc biên giới hẳn khó lọt qua con mắt của các chuyên gia quân sự
Trung Quốc ngay từ thời điểm này để chuyển về cho Trung Ương Đảng của
họ, không cần phải đợi tới bốn chục năm sau.
Về chủ trương giữ bí mật cho những chuyến đi của Hồ Chí
Minh và sau này là về Đoàn Cố Vấn Trung Cộng cũng là điều người ta cần
chú ý. Phía nào thực sự chủ trương giữ bí mật và tại sao phải giữ bí
mật? Câu hỏi cần phải được đặt ra, cũng như Hồ Chí Minh có hứa hẹn gì
với Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo khác của Trung Quốc để đánh đổi
lấy viện trợ của Trung Quốc không? Cũng vậy có thật viện trợ này là
không hoàn trả và hoàn toàn vô vị lợi dựa trên nghĩa vụ quốc tế giữa các
đảng cộng sản với nhau hay không hay ngược lại, có liên hệ gì tới sự
nhượng bộ của Cộng Sản Việt Nam đối với Cộng Sản Trung Quốc sau này
không? Về điều này người đọc nên để ý tới sự gợi ý của Staline là Trung
Quốc giúp cho Việt Nam một con gà thì Việt Nam có thể trả lại cho Trung
Quốc một trái trứng. Con gà là quân sự, là kinh tế, tài chính, là lương
thực, là tiền tệ, còn trái trứng là cái gì? Cũng vậy, sự giữ bí mật này
có liên hệ gì tới cách giải thích sự thỏa hiệp với Pháp của Hồ Chí Minh
hồi năm 1946 trước đó, đại khái là thà ngửi c... thằng Tây ít năm còn
hơn là làm nô lệ thằng Tầu thêm một ngàn năm nữa hay những gì họ Hồ và
Đảng Cộng Sản đã lên án phía Việt Quốc, Việt Cách mấy năm trước đó? Hay
giữ bí mật theo yêu cầu của Nga và của Tầu hay tất cả? Người viết sẽ
trở lại vấn đề này trong một bài khác. Cũng cần phải để ý tới sự kiện
là thời điểm của cuộc viếng thăm là đầu năm 1950, lúc Liên Xô sau thế
chiến thứ hai chưa đủ mạnh và Cộng Sản Trung Quốc chỉ mới lên cầm quyền ớ
Trung Hoa Lục Địa không được bao lâu. Cả hai lúc đó đều không muốn
gây chuyện trực tiếp với Pháp và gián tiếp với Hoa Kỳ.
Thứ hai: Viện trợ cho Việt Nam không phải chỉ vì nhu cầu
của Việt Nam mà cả Trung Cộng vì ở thời điểm 1950 Trung Cộng cũng có nhu
cầu đánh đuổi quân Pháp nhằm bảo đảm biên giới phía Nam của mình chống
lại tàn dư của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Điều này cũng được các tác giả
nói tới. Chiến dịch Đông Bắc và sau này đánh Tây Bắc và sang Lào thay vì
đồng bằng sông Hồng mà các cố vấn Trung Quốc đã bắt ép các nhà chỉ huy
quân sự Việt Minh phải chấp nhận cũng nhằm mục tiêu này.
Thứ ba: Có một sự khác biệt về chủ trương chiến lược và
chiến thuật giữa các cố vấn Trung Quốc và các tướng tá Việt Minh và phía
Việt Minh bị bó buộc phải nghe theo trong đó có mục tiêu tấn công như
đánh để tiêu diệt địch hay đánh để chiếm các cứ điểm hay các thị trấn?
địa điểm tấn công, đánh nơi nào trước, Cao Bằng hay Đông Khê, đồng bằng
sông Hồng hay Lai Châu, Tây Bắc và Lào? đánh nhưng vẫn phải lưu tâm tới
hoàn cảnh của các chiến sĩ anh em, đồng bào của mình hay đánh để thắng
với bất cứ giá nào? Cuối cùng các cố vấn Trung Cộng khi không thuyết
phục các tướng tá Việt Minh được đã luôn luôn báo cáo về cho Trung Ương
Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Mao Trạch Đông để Trung Ương Đảng Cộng Sản
Trung Quốc liên lạc với Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam và Hồ Chí Minh
và cuối cùng các cố vấn Trung Quốc đã luôn luôn thắng thế. Chủ trương
của họ đã được Hồ Chí Minh và Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam chấp
nhận, đồng thời may mắn cho họ, kết quả là đã chiến thắng. Đọc các bài
víết này người ta có cảm tưởng là các chiến thắng của Việt Minh từ Đông
Bắc đến Điện Biên Phủ hoàn toàn là do công lao của các cố vấn Trung
Quốc, từ đầu đến cuối, từ hoạch đinh chiến lược, lựa chọn địa điểm để
đánh đến trực tiếp tham gia theo dõi, chỉ huy trận đánh và trực tiếp can
thiệp ngay khi cần. Các tướng tá Việt Nam đều là thiếu kinh nghịêm,
nhút nhát, không dám chấp nhận gian khổ. Chẳng hạn như trong chiến dịch
Việt Bắc, Trần Canh và Vi Quốc Thanh đã nghiên cứu tỉ mỉ phòng tuyến
Quốc Lộ 4 của Pháp để đưa ra đề nghị đánh Đông Khê trước thay vì Cao
Bằng. Đề nghị này đã được Hồ Chí Minh lúc đó lên thị sát mặt trận, trực
tiếp phê chuẩn thay vì qua Tổng Tư Lệnh Võ Nguyên Giáp. Họ Hồ còn chỉ
thị thêm rằng: “Chiến dịch này chỉ được thắng, không được thua!”,
đúng như chủ trương của Trần Canh. Lý do là vì Hồ đã quen bíết Trần
Canh từ lâu trước đó, từ năm 1925 - 1926, đã yêu cầu Mao Trạch Đông cử
Trần Canh sang giúp và tin cậy ở Trần Canh đồng thời biết rõ nhu cầu
Trung viện. Chỉ được thắng, không được thua hay thắng bằng bất cứ giá
nào, bất kể sự hy sinh của binh sĩ là chủ trương của Trần Canh, khác với
chủ trương của Võ Nguyên Giáp và của Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 174
Đặng Văn Việt. Trong trận Đông Khê khi vị Trung Đoàn Trưởng này vì bộ
đội của mình bị thương vong quá nhiều định rút lui, Vi Quốc Thanh đã
điện thoại cho cố vấn Trương Chí Thiện của trung đoàn này, thúc đẩy vị
chỉ huy của trung đoàn này, điều chỉnh bố trí và đánh tiếp. Giữa Trần
Canh và Võ Nguyễn Giáp tối ngày 4 tháng 10 năm 1950 cũng đã tranh cãi
nặng nề qua điện thoại khi quân Việt Minh tấn công chiếm núi Cốc Xá sau
ba ngày liên tiếp và bị thiệt hại nặng, Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Việt Minh
ra lệnh cho bộ đội tạm ngưng tấn công để nghỉ ngơi chỉnh đốn. Tranh
cãi nặng qua điện thoại đến độ Trần Canh có lúc đã nói to: “Nếu trận này không đánh nữa thì tôi xin cuốn gói chuồn.” và nói tiếp: “Vào giờ phút then chốt này, bộ chỉ huy mà dao động thì chôn vùi thời cơ rất tốt để chiến dịch thắng lợi”,
đồng thời dập mạnh điện thoại xuống. Nhưng rồi sau đó Trần Canh đã liên
lạc thẳng với Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Kết quả là Hồ
Chí Minh đã ra lệnh cho bộ đội tiếp tục, còn Mao Trạch Đông thì khuyến
cáo phải nhanh chóng tiêu diệt địch cho dù thương vong quá lớn cũng
không nên quá lo, không nên dao động (trang 41). Những chi tiết này ít
ra Tướng Giáp và Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 174 là những nhân chứng ở
thời điểm cuốn sách này được ấn hành (năm 2002) hay khi bài điểm sách
này được viết (đầu mùa xuân năm 2013), vẫn còn sống có thẩm quyền xác
nhận hay phủ nhận, đồng thời cũng có quyền giữ im lặng.
Thứ Tư: Trong việc giúp Việt Minh huấn luyện và tổ chức
lại quân đội, các cố vấn Trung Cộng còn giúp và rất có thể đã áp lực các
nhà lãnh đạo của đảng này thực hiện một cuộc chỉnh huấn với chữ dùng
trong tài liệu là chỉnh quân chính trị. Công tác này đã được các cố vấn
Trung Cộng lưu ý từ ngay những ngày đầu, nhưng mãi đến mùa hè và mùa thu
năm 1953 mới trở thành qui mô toàn diện. Nó nằm trong chủ trương cách
mạng căn bản của Mao Trạch Đông và luôn cả của Staline qua khuyến cáo
của Staline khi Staline tiếp Hồ Chí Minh hồi đầu năm 1950, với những dấu
hiệu đầu tiên đã lộ rõ qua những nhận xét của các cố vấn Trung Quốc về
các cấp chỉ huy của bộ đội Việt Minh khi họ thấy những vị chỉ huy này có
trình độ học vấn cao, ghi chú nhanh, học giỏi, nhưng nặng đầu óc tư
sản, nhút nhát, sợ gian khổ, sợ khó khăn, không có tầm nhìn chiến
lược... trong khi các binh sĩ cấp dưới ít học và không được thăng
thưởng. Những ngôn từ như tố khổ, giác ngộ giai cấp... đã được Vu Hóa Thầm nhắc tới trong bài viết của tác giả này (trang 63). Chiến dịch chỉnh huấn quân sự, chính trị
qui mô này đã được phối hợp với phong trào cải cách ruộng đất lúc này
đang được tiến hành ở các cứ địa của Việt Minh ở Việt Bắc. Những sĩ
quan xuất thân là các sinh viên, học sinh, những thành phần trí thức,
quan lại, tư sản đã tham gia Vệ Quốc Đoàn từ những ngày đầu của cuộc
kháng chiến do Việt Minh lãnh đạo thuần túy chỉ vì yêu nước, không còn
được phục vụ như xưa nữa. Ngay danh xưng Vệ Quốc Đoàn cũng bị thay thế
để trở thành Quân Đội Nhân Dân. Một giai đoạn trong cuộc chiến tranh
chống Pháp của Việt Minh đã đi qua, kèm theo với tất cả những gì đẹp đẽ
nhất và lãng mạn nhất của nó. Trung Đoàn Trưởng Đặng Văn Việt, Con Hùm
Xám Của Đường Số 4, thay vì trở thành ít ra là thiếu tướng vì đã đánh
bại không phải một mà hai đại tá của quân Pháp theo tiêu chuẩn của Hồ
Chí Minh khi ông này phong cấp đại tướng cho Võ Nguyên Giáp, đã bị gửi
qua Trung Quốc làm tân khóa sinh của một trường sĩ quan của người Tầu.
Cũng may là họ Đặng nhờ ơn phước của dòng họ, còn sống sót.
Trong sinh hoạt văn học nghệ thuật phải chăng vì danh xưng
Vệ Quốc Đoàn không còn dược dùng nữa, những bài hát tràn ngập lòng yêu
nước đại loại như:
Đoàn Vệ Quốc Quân một lần ra đi
Nào có mong chi đâu ngày trở về.
Ra đi, ta đi bảo tồn sông núi.
Ra đi, ra đi thề chết chớ lui...
Phan Huỳnh Điểu, Đoàn Vệ Quốc Quân
hay những bài thơ đẹp và vui tươi như:
Đoàn Vệ Quốc áo đen
Vượt qua sườn Tam Đảo
Sau những ngày dông bão.
Việt Bắc giặc lui rồi
Lũ tàn quân xơ xác
Chiến sĩ ta reo cười
Chim rừng vang tiếng hát.
Các anh như bầy chim,
Nẻo rừng sâu bay tới.
Huyện Tam Dương im lìm
Bỗng dưng vào đại hội.
và:
Đêm liên hoan đầu người nhấp nhô như sóng biển ngang tàng.
Ta muốn thét cho vỡ tan lồng ngực
vì say sưa tình thân thiết Vệ Quốc Đoàn.
Hoàng Cầm, Đêm Liên Hoan
sau những năm này không còn được ai sáng tác nữa hay có sáng tác cũng
chẳng bao giờ được phổ biến. Tất cả chỉ còn là một hoài vọng để cho
những người lính già lâu lâu ngồi nhớ lại kể cho nhau nghe hay viết cho
nhau đọc. Chỉ tiếc rằng cái đẹp vừa hào hùng vừa lãng mạn của thời trai
trẻ mà chính họ cũng như thời thế đã tạo được cho họ đã không toàn vẹn
như cái đẹp của người lính già thuở Bình Mông ngày trước:
Buông tay gầu vui lại thuở Bình Mông.
và ngâm hai câu thơ của Vua Trần Nhân Tông:
Bạch đầu quân sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.
.
Lính già phơ tóc bạc,
Kể chuyện thủa Nguyên Phong.
Trần Nhân Tông
Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng
Ngô Tất Tố dịch
hay câu:
Triệu tính âu ca lạc thịnh thì.
của Trần Nguyên Đán (13251390), ông ngoại của Nguyễn Trãi, trong bài Đề Quan Lỗ Bạ Thi Tập Hậu,
ca ngợi thời thanh bình, thịnh trị sau khi cuộc “Bình Mông” được hoàn
tất và hoà bình, không hận thù đã thực sự trở lại, khi “muôn dân ca hát
vui đời thịnh trị”.
Cùng với viện trợ của người Tàu sự can thiệp “không khoan
nhượng” của các cố vấn Tầu cũng như cuộc “chỉnh quân chính trị”, cuộc
cải cách ruộng đất tiếp theo và sự loại trừ danh xưng Vệ Quốc Đoàn, thay
thế bằng Quân Đội Nhân Dân, cuộc chiến tranh giành độc lập của người
Việt Nam do Hồ chí Minh và Đảng Việt Minh lãnh đạo không còn là cuộc
chiến tranh giành độc lập nữa. Nó đã thực sự trở thành chiến tranh ý
thức hệ nhằm xây dựng xã hội chủ nghĩa dưới sự chỉ đạo của Bắc Kinh và
gián tiếp từ Mạc Tư Khoa. Câu đầu tiên Hồ Chí Minh hỏi Staline trong
buổi tiếp tân chiêu đãi trọng thể dành cho Mao Trạch Đông, Châu Ân Lai
và toàn thể các đoàn viên phái đoàn Trung Quốc, “Đồng chí còn có chỉ thị gì nữa đối với công tác của Việt Nam chúng tôi không?” dẫn trên, nếu đúng, cho ta thấy rõ điều này.
Trên đây chỉ là một vài nhận xét mà người viết đọc tài liệu
này, đọc và nhận ra được. Hy vọng tác phẩm này cũng như những tác phẩm
tương tự sẽ được phổ biến rộng rãi hơn và được nhiều người đọc hơn,
nhất là những người được các tác giả của những hồi ký này bằng cách này
hay bằng cách khác nói tới, hầu có thể đóng góp thêm sự thực về một giai
đoạn cực kỳ khó khăn và cực kỳ phức tạp và tế nhị nhưng không phải là
không có những nét đẹp riêng của lịch sử Việt Nam trước khi mọi sự trở
thành đen tối như người ta thấy sau này vì dù sao đây mới chỉ là tiếng
nói của một phía. Điều đáng tiếc là cho đến nay hầu như tất cả đều im
lặng, một sự im lặng đáng sợ.
Phạm Cao Dương
Khởi viết Đầu Xuân 2013
Sửa lại Đầu Hè 2017
Nguồn: vietbao online