Trọng Đạt
Việt Nam Cộng Hòa và dòng họ Ngô-Đình
Lời Giới Thiệu- Tôi mới nhận được sách do người bạn gửi
tặng, cuốn La République du Việt Nam et les Ngô Đình bằng tiếng Pháp của tác
giả Ngô-Đình Quỳnh, Ngô-Đình Lệ Quyên (+2012), nhà xuất bản L’Harmattan, in năm
2013, dầy 246 trang. Phần sau có in thêm hồi ký hậu tử của bà Ngô Đình Nhu
(suivi des Memoires posthumes de Madame Ngô Đình Nhu) xuất bản sau khi tác giả
đã qua đời.
Phần chính nói về Việt Nam Cộng Hòa và gia đình họ Ngô dài trên 60 trang,
khoảng 30 trang gồm hình ảnh gia đình và cuối cùng phần phụ: hồi ký của bà Ngô
Đình Nhu dài 120 trang.
Tôi xin lược dịch phần chính của cuốn sách do hai tác giả Ngô-Đình Quỳnh và
Ngô-Đình Lệ Quyên biên soạn, tác phẩm gồm 4 chương diễn tả lại những sự kiện
lịch sử nay đã vang bóng một thời.
TĐ
Chương 1- Dòng họ Ngô-Đình
Họ Ngô-Đình thuộc dòng dõi Ngô Quyền, vị Hoàng đề đầu tiên của Việt
nam. Ở thế kỷ thứ nhất vào năm 939, sau nhiều cuộc chiến chống xâm lược, Ngô
Quyền đã dựng lên triều đại Việt Nam đầu tiên.
(Có
lẽ tác giả nhầm, chắc là thế kỷ thứ 9, nguyên văn Au 1er siècle, en 939, TĐ).
Thế kỷ thứ 14, thời nhà Trần, họ Ngô-Đình là một trong những gia
đình đầu tiên cải đạo Thiên Chúa Giáo.
Ông Ngô-Đình Khả (1857-1923) được gửi đi học bên Tầu, Mã Lai về nước lập
gia đình, là cha của hai ông Diệm, Nhu sau này. Họ Ngô-Đình ít thấy có ở Việt Nam .
Ngô-Đình Khà là người học rộng được vào triều đình dậy học, sau làm
Thượng thư bộ Lễ, quân sư vua Thành Thái. Làm quan to nhưng ông chống Pháp, từ
bổng lộc. Theo Thiên Chúa Giáo nhưng vẫn thờ tổ tiên, sau Tết ba ngày ông
thường mời những người bên lương đi tảo mộ. Mặc dù theo Thiên Chúa Giáo nhưng
Ngô-Đình Khả yêu nước, chuộng văn hóa phong tục cổ của dân tộc. Ông khác với
những người đồng đạo Thiên Chúa theo Tây, thực dân, tại Nam Việt nhiều vùng
Thiên Chúa Giáo dựa vào thực dân để được cấp đất dai.
Sau Thế chiến thứ nhất 1914, thập niên 30 Việt Nam nghèo, phong trào dành độc lập
bắt đầu. Năm 1931 phong trào Việt Minh thành lập. Ông Ngô -Đình Khôi con cả của
ông Ngô-Đình Khả, tổng đốc Quảng Nam bị Việt Minh giết năm 1944 cùng
với người con trai duy nhất. Con thứ hai là ông Ngô-Đình Thục sinh năm 1897 đi
tu, năm 1938 được bổ nhiệm Giám mục địa phận Vĩnh Long, năm 1960 làm Giám mục
địa phận Huế, không có mặt trong cuộc đảo chính ngày 2-11-1963 (thực ra ngày
1-11, TĐ), ông lưu vong tại Ý, Pháp, Tây Ban Nha và mất tại Mỹ ngày
13-12-1984.
Ông Ngô-Đình Diệm sinh ngày 3-1-1901 là con trai thứ ba, sinh viên xuất
sắc trường luật và hành chánh Hà Nội, năm 1921 ông đậu thủ khoa làm việc tại
thư viện Hà Nội sau làm Tuần vũ (tỉnh trưởng) Phan Rang gồm 300 làng, ông hiểu
rõ về đời sống nông thôn. Sau này khi làm Tổng thống ông hay đi thăm các tỉnh.
Là người có tài năng ông được Hoàng đế Bảo Đại đưa vào triều giữ chức Thượng
thư bộ lại năm 1933 khi còn trẻ mới có 32 tuổi. Mấy tháng sau ông Diệm từ quan
vì là người yêu chuộng độc lập, ông thấy nhà vua không muốn dành độc lập tử tay
người Pháp, ông tuyên bố không có thực quyền, người Pháp dọa bắt ông.
Tháng 9-1945 ông Diệm bị Việt Minh bắt đưa đi giam ở một vùng đồi núi
biên giới Việt Hoa, ông bị bệnh nặng. Hồ Chí Minh mời ông Diệm hợp tác chống
Tây nhưng ông từ chối và kết án Việt Minh giết anh ông, vu cáo gia đình ông:
Diệm nói Ông coi tôi có sợ ai không?
Sau đó Hồ thả Diệm. Biết là mình bị đe dọa nên ông Diệm tìm đường ra ngoại quốc
tại Á châu, Âu châu, Mỹ. Năm 1950 ông ở La Mã, sang Bỉ rồi sang Mỹ ở trong một
tu viện tại Lakewood , New Jersey nghiên cứu sử, thần học, triết
học.
Ngô-Đình Nhu sinh taị Huế ngày 7-10-1910 là con trai thứ tư, đi Pháp du
học văn khoa đại học Sorbonne, tốt nghiệp năm 1938 môn khảo cổ về nước làm phó
giám đốc thư viện Hà Nội. Từ 1946-1954 ông hoạt động chính trị để thành lập
chính phủ quốc gia độc lập.
Ngô-Đình Cẩn và Ngô-Đình Luyện là hai người em út sau này cũng giữ chức
vụ, nhiệm vụ trong chính phủ Việt Nam .
Trần Lệ Xuân, sau này là phu nhân Ngô-Đình Nhu sinh năm 1924 tại Hà Nội, bà cụ
thân sinh thuộc dòng dõi nhà Nguyễn, cha là luật sư Trần Văn Chương, bộ trưởng
ngoại giao thời vua Bảo Đại năm 1945, bà lấy ông Nhu năm 1943 tại Hà Nội và cải
đạo Thiên Chúa Giáo.
Chương 2- Thành Lập và mở mang nền Cộng Hòa Việt Nam
Khi Hội nghị Genève đang diễn ra sau khi Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ, Hoàng
Đế Bảo Đại nghĩ tới ông Ngô-Đình Diệm. Pháp không ưa ông nhưng Mỹ chú ý tới,
ngày 16-6-1954 Hoàng Đế mời ông làm chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng
(Tác giả nhầm, hồi đó gọi là Thủ
Tướng, Le Premier Ministre chứ không phải Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng,
President du Conseil des Ministres, TĐ)
Ông Diệm về Việt Nam
tháng 7-1954, khi chấp chính ông gặp
trở ngại vì Pháp ngăn trở.
Hoàng Đế Bảo Đại ở Cannes
không quan tâm việc nước, khi ấy nhà vua giao cho ông Diệm được toàn quyền.
Cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức ngày 23-10-1955, ông Diệm được 98% số phiếu.
Ngày 4-3-1956 bầu lập pháp Quốc hội, ông Diệm mời ông Nhu, em trai làm cố vấn.
Trước mắt có nhiều điều khó khăn nguy nan gồm Các giáo phái và bọn cướp
Bình Xuyên. Giáo phái và Bình xuyên được Pháp giúp. Tướng Trịnh Minh Thế giúp
Tổng thống dẹp loạn Bình Xuyên,chúng lộng hành tại Sài Gòn, sau khi đánh Cao
Đài Hòa Hảo xong ông Diệm đánh Bình Xuyên.
Ngày 27-9-1956 tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi Việt Nam . Ngày 26-10-1956 thành lập nền
Cộng hòa, ông Diệm là người sáng lập nền Cộng hòa Việt Nam , chấm dứt phong kiến và chế độ
thuộc địa.
( Tác giả nhầm: sự thực ông Diệm
đánh Bình Xuyên, Hòa Hảo giữa năm 1955 xong mới Trưng cầu dân ý lên làm Tổng
thống tháng 10-1955 chứ không phải làm TT rồi mới dẹp loạn, TĐ)
Ông Diệm mở mang giáo dục, mở nhiều trường học. Hạ tầng cơ sở được tạo
dựng nhưng bị Việt Cộng phá hoại. Đời sống người dân được bảo đảm về y tế, an
ninh. Việc giáo dục tiến bộ, các trường gia tăng mở mang, xuất cảng gạo tăng
500% tính từ 1954-1959. Ông Ngô-Đình Nhu lập đảng Cần Lao Nhân vị, thành lập
Thanh niên Cộng hòa, lập thuyến Nhân Vị có tầm vóc tinh thần, tầm vóc xã hội và
chính trị, kinh tế.
Cộng Sản lừa dối cán binh, nhiều ngưới đã ra hàng, ông Nhu sáng kiến và
thực hiện Ấp chiến lược. Trưởng ấp, xã trưởng, giáo viên, ý tá đã bị Cộng Sản
sát hại. Ấp chiến lược cấp cho người dân phương tiện tự vệ chờ trực thăng chở
quân chiến đấu tới, nay người dân được an tâm sinh sống trong làng có hàng rào.
Việt cộng không áp dụng chính sách quân dân cá nườc được, họ ra hồi chánh
nhiều, mùa hè 1962 cuộc chiến thuận lợi nhờ ấp chiến lược.
Ngày 23-7-1962 Bộ trưởng quốc phòng McNamara lập kế hoạch rút quân và giảm viện
trợ VNCH. Ông Nhu chủ trương hòa bình với Bắc Việt, ông Hồ chí Minh tặng cành
đào cho ông Diệm dịp Tết, Ngô-Đình Nhu còn đề nghị ra Bắc cũng như đưa hai con
trai ra thăm miền Bắc.
Mỹ ép ông Diệm nhận thêm cố vấn quân sự, đòi đưa ông Nhu ra ngoại
quốc nhưng bị phía VN từ chối, họ giảm viện trợ để khiến người dân nổi dậy
chống ông Diệm. Tổng thống Kennedy tuyên bố muốn thay đổi chính trị và thay đổi
người ở VN, họ tuyên truyền làm giảm uy tín của ông Diệm tạiTây phương, ngưởi
ta tin Mỹ và tin vào tuyên truyền của họ.
Ngày 3-12-1962 Roger Hilman, Giám đốc nghiên cứu Bộ ngoại giao nhận định
Ấp chiến lược khiến chính phủ bình định được miền quê hiệu quả. Việt Cộng gây
ảnh hưởng tỉnh thành, tuyên truyền dụ dỗ những thành phần bất mãn chính phủ
Diệm, những người này thân Cộng bài Mỹ. Ông Diệm phải trấn an công chức quân
nhân, tiên đoán có đảo chính. Văn thư trên của Hilman cũng cho thấy chính
phủ VN có tiến bộ. Chính phủ vừa phải chống Cộng và chống nội bộ tranh dành
quyền hành (đảo chính)
Tháng 4-1963 ông Nhu ban hành chính sách chiêu hồi, ra lệnh quân đội
không được giết kẻ địch mà chỉ phá hậu cần và cho chúng con đường chạy. Quân
địch ra hàng rất nhiều, sau mấy tháng có 6,000 người, họ đói rách khốn khổ, họ
nói ấp chiến lược khiến họ không còn lương thực.
Tháng 10-1963 McNamara nói tình trạng an ninh tiến triển tốt, Tướng Harkins, Tư
lệnh quân Mỹ ở VN nói tinh thần chiến đấu rất cao. Khi Ngô-Đình Nhu chết, 8,000
trong số 12,000 làng đã được lập thành. Ấp chiến lược khiến cho VC
không ám sát, bắt thanh niên. Khi người Mỹ loại bỏ ông Nhu, họ bỏ ấp chiến lược
và đổ nửa triệu quân vào với những phương tiện chiến tranh to lớn nhưng thất
bại 12 năm sau đó.
Bà Ngô-Đình Nhu được bầu dân biểu, cũng là Chủ tịch Phong trào liên
đới phụ nữ, phong trào đã giúp đỡ đồng bào di cư, tổng cộng có một triệu người
từ Bắc vào Nam như vậy chứng tỏ chính phủ Diệm hấp dẫn hơn Hồ Chí Minh. Phong
trào Liên đới giúp đỡ cô nhi, nạn nhân chiến tranh, tàn tật, bà cũng mở một
phong trào bán quân sự, huấn luyện tự vệ.
Khi ông Diệm mất, đất nước chịu những tranh dành quyền hành trở
thành bi kịch của các Tướng lãnh. Bà Nhu đã giải phóng phụ nữ, đưa ra luật gia
đình. Từ năm 1958 bà trình quốc hội và được chấp thuận, nam nữ bình
quyền, bỏ tục đa thê, bà Nhu thực hiện được bộ luật gia đình. Tổng thống độc
thân nên bà Nhu giữ vai trò đệ nhất phu nhân trong các nghi lễ lớn ngoại giao.
Các báo chí, hình ảnh Việt nam đầu thập niên 60 thể hiện tiến bộ của kinh
tề miền nam dưới thời Ngô-Đình Diệm. Về quân sự ấp chiến lược đã có kết quả,
những thành quả tốt đẹp sau đó bị hành pháp Mỹ phá hỏng hết, họ quyết định hạ
Diệm-Nhu. Không phải người dân chống chính phủ mà vì các Tướng nhiều tham vọng,
tham quyền, ham danh vọng do Mỹ điều khiển
Chương 3- Cuộc đảo chính
Trong tháng 8 -1963, Tổng thống Diệm và Nhu biết Mỹ định mua chuộc các Tướng để
lật đổ chính phủ. Hai ông bèn triệu tập các Tướng để nhắc nhở họ về trách nhiệm
với đất nước. Tổng thống Kennedy cử ông Cabot-Lodge tới Sài Gòn làm Đại Sứ thay
ông Nolting. Cabot-lodge tới Sài Gòn ngày 22-8-1963, ông điện tín về Bộ
ngoại giao Mỹ nói các Tướng giữ nhiệm vụ quan trọng ở Sài Gòn trung thành với
ông Diệm, các Tướng khác thì không rõ, đảo chính chỉ là cầu may. Cuối tháng 8
họ không có chính sách về VN. Dean Rusk (bộ trưởng ngoại giao) chủ trương
Mỹ không rút khỏi VN trước khi thắng CS và không làm đảo chính tại VN.
Hồ sơ giải mật Ngũ giác đài đã cho biết những sự kiện mới. Ngày
13-6-1971 báo New york Times cho đăng những tài liệu bí mật mà McNamara thu
thập từ 1967, bị tiết lộ ra báo chí. TT Nixon tức giận muốn muốn cấm đăng nhưng
ngày 30-6-1971 Tối cao Pháp viện cho phép đăng.
Chương 4 của hồ sơ này có tên là Lật đổ Ngô-Đình Diệm , có lời
ghi “Tài liệu nghiên cứu Ngũ giác đài về chiến tranh Việt Nam” cho
thấy TT Kennedy biết kế hoạch đảo chính quân sự 1963 và ông chấp thuận.
Tài liệu khảo cứu nói từ tháng 8-1963 chúng ta (tức người Mỹ) đã
khuyến khích, chấp thuận kế hoạch đảo chính của các Tướng lãnh VN và hứa lập
chính phủ thay thế lâu dài… chúng ta đảo chính để tăng thêm trách nhiệm của
chúng ta tại VN và sự can thiệp của Mỹ. Hồ sơ cho thấy người Mỹ không đồng lòng
khi kết án hành động ông Diệm.
TT Kennedy cử một phái đoàn sang Sài Gòn để lượng giá tình hình, cử Tướng
Krulak và Mendenhall nguyên Cố vấn chính trị đại sứ Mỹ, họ về báo cáo
trái ngược nhau. Ngày 23-9-1963 ông gửi một phái đoàn khác gồm McNanara và
Tướng Maxwell Taylor, ngày 2-10 họ báo cáo quân sự tốt đẹp, ấp chiến lược mở
mang, chúng ta có thể rút cố vấn về cuối 1965, cắt viện trợ kinh tế để ép chính
phủ Diệm cải tổ chính trị. Kennedy chấp thuận, McNamara tuyên bố 1,000 người Mỹ
sẽ rời VN nước cuối 1963. Kennedy lưỡng lự trước hai báo cáo của những người
ủng hộ và chống Diệm.
Tướng Harkins ở VN báo cáo về Mỹ: lúc này thay đổi lãnh đão không tốt,
tôi không thấy ai chống cộng bằng ông Diệm, tình hình quân sự ở vùng 1, 2, 3 và
4 nói chung tốt đẹp. Đại sứ Cabot-lodge gửi thư cho George Bundy, cô vấn
Kennedy ngày 30-10-1963 nói Mỹ đã giúp xứ này về quân sự kinh tế nhưng muốn thắng
cuộc chiến phải thay đổi chính quyền, phải chuẩn bị đảo chính. Các Tướng chủ
mưu cần tiền để mua chuộc các Tướng thân cận ông Diệm thì đảo chính sẽ thành
công, chúng ta sẽ lo di tản gia đình họ. Đại sứ Cabot-Lodge công nhận kinh tế,
quân sự tiến bộ nhưng cho là ông Diệm lỗi thời cần phải trừ khử bất kể hậu quả
ra sao.
Quyết định của Đại sứ Cabot-Lodge ảnh hưởng tới TT Kennedy, cuộc đảo
chính đang tiến hành không thể dừng lại được, hai ngày sau nó bùng dậy. Trung
tá CIA Lucien Conein được giao nhiệm vụ liên lạc các Tướng vì ông biết tiếng
Pháp, ông ta khuyến khích các Tướng phản lại Tổng thống Diệm, hứa nếu thất bại
sẽ được Mỹ bảo vệ, thắng thì nắm quyền. Tòa đại sứ bật đèn xanh, CIA hợp tác
chặt chẽ các tướng.
Cuối tháng 10, không khí Sài Gòn u ám, Ngô-Đình Nhu nghĩ tới vợ và con
gái (bà Nhu và Lệ Thủy) đi xa, ông gọi Trác lúc ấy 16 tuổi, Trác là người nối
dõi dòng Ngô-Đình vì ba người anh lớn (của ông Nhu) không có con nối dòng. Ông
Nhu bảo Trác đưa hai em (Quỳnh, Lệ Quyên) lên Đà Lạt. Tác giả chú thích nói hôm
sau ngày đảo chính ba anh em ở Đà Lạt, trốn vào rừng cùng mấy người cận vệ rồi
tìm tới phi trường (Đà Lạt) lên máy bay sang La Mã
(Tác giả nhớ sai vì hồi đó ông còn nhỏ, sự thực ba người con bà Nhu đã được
tân chính phủ cho đi chính thức tại Sài Gòn sau đảo chính TĐ)
Trưa ngày 1-11 (1963), các Tướng họp dự tiệc ở bộ Tổng tham mưu do Tướng Trần
Thiện Khiêm đãi, khi mọi người vào bàn Tướng Dương Văn Minh đứng dậy tuyên bố
một cuộc đảo chính đang bắt đầu và yêu cầu mọi người ủng hộ. Ai nấy đều hoan hô
riêng Tướng Lê Quang Tung, chỉ huy trưởng lực lượng đặc biệt của cố vấn
Ngô-Đình Nhu nói: Các ông phải biết ai gắn sao cho các ông?” LQTung bị bắt đi
xử tử cùng với người em Lê Quang Triệu.
Nguyễn Hữu Duệ, đại úy (thực ra là Thiếu tá, TĐ) Tham mưu trưởng
lữ đoàn phòng vệ phủ Tổng thống gọi điện thoại cho Tổng thống và cho biết ông
sẽ tấn công chớp nhoáng bộ TTM bằng bộ binh, chiến xa, nếu tấn công sẽ bắt trọn
bộ các Tướng làm phản.
Ông Diệm từ chối nói người đồng đội không giết lẫn nhau, lúc 17 giờ (5
giờ chiếu) Tướng Dương Văn Minh điện thoại cho cố vấn Ngô-Đình Nhu nói nếu hai
người không ra hàng thì sẽ cho ném bom, bắn đại bác vào dinh (Gia Long). Tối
lúc 20 giờ, đại sứ Cabot-Lodge điện thoại cho ông Diệm nói nếu ông hàng thì sẽ
được đi ngoại quốc nhưng Tổng thống nói sẽ tử thủ tại đây.
Tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh vùng I, Huế cũng như Nguyễn Khánh, Tư lệnh vùng II
(Pleiku) báo cáo Tổng thống muốn đưa quân về cứu, Tướng Huỳnh Văn Cao Tư
lệnh vùng IV ở Cần Thơ cũng ra lệnh tiến về Sài Gòn nhưng Tổng thống bác bỏ
không muốn đổ máu. Nguyễn Khánh đề nghị anh em ông đến Pleiku nhưng ông cũng từ
chối không muốn đổ máu cho quân đội quốc gia.
Nửa đêm hai ông Diệm Nhu đi xe Cao Xuân Vỹ, Tổng giám đốc
Thanh niên cộng hòa, ông Diệm ngồi trước, Nhu, Đỗ Thọ ngồi sau. Tới nơi ông
Diệm ra lệnh cho quân phòng thủ (tại dinh Gia Long) ngưng chiến tranh đổ máu.
Khi đại tá Nguyễn Văn Thiệu mở cuộc tấn công, những ngưòi lính phòng thủ trong
dinh chiến đấu tới viên đạn cuối cùng.
Tổng thống và người em ngủ tại nhà Mã Tuyên, người Việt gốc Hoa phụ
trách Thanh niên Cộng hòa tại Chợ Lớn. Sáng ngày 2-11-1963 hai anh em Ngô-Đình
chịu lễ tại nhà thờ Francois Xavier Chợ Lớn (nhà thờ Cha Tam). Sau lễ ông
Diệm nhờ linh mục (người làm lễ) liên lạc với Tướng Trần Văn Đôn, ông muốn đưa
họ về lý lẽ và tình yêu tổ quốc.
Các Tướng Đôn và Trần Tử Oai chuẩn bị xe cộ đàng hoàng đi đón hai
ông nhưng Tướng Mai Hữu Xuân được lệnh đi gặp có thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa và
Nguyễn Văn Nhung, cận vệ Tướng Dương Văn Minh đi theo. Trước khi khởi hành
Dương Văn Minh đưa hai ngón tay ra hiệu giết cả hai người
Ông Diệm và Nhu đợi trước nhà thờ với linh mục, bỗng một xe díp và một xe bọc
thép tới. Tướng Xuân nói ông được lệnh tới bắt và mở cửa xe thiết giáp, ông Nhu
phản đối thì ông Xuân nói xe này bảo đảm an ninh. Trên đường về hai anh em ông
Diệm bị Nguyễn Văn Nhung bắn nhiều viên và đâm chết, để chối tội anh này nói
hai ông tự sát thực ra hai tay bị trói. Bộ Tổng tham mưu ngạc nhiên thấy hai
ông bị giết, TT Kennedy cũng bối rối trước cảnh hai ông đã mạng vong trong cơn
khói lửa, việc mà ông không tiên đoán sẽ sẩy ra.
Sau khi chính phủ bị lật đổ, Cộng quân tuyên truyền dụ dỗ đồng bào miền
nam chống đế quốc Mỹ. Cũng chính Tướng Dương Văn Minh được Mặt trận giải
phóng kêu gọi. Chính ông ta đã đuổi Mỹ, ông ta đầu hàng không chống cự Việt
Cộng khi họ vào Sài Gòn và giao đất nước cho quân địch.
Một kết thúc ô nhục cho kẻ chịu trách nhiệm chính trong sự phản bội và
sát hại thượng cấp đưa đất nước vào tình trạng hỗn loạn.
Ngày 5-11-1963, Tổng thống Pháp De Gaulle có tiếp xúc Đại sứ Mỹ Bohlen và
nói:
“Tôi không tin các ông thành công bằng can thiệp trực tiếp vào VN, rất tiếc cho
Mỹ là hai ông Diệm Nhu đã bị giết, những người thay thế chắc sẽ không thành
công. Kinh nghiệm riêng của chúng tôi thì những người cầm quyền do ngoại bang
điều khiển sẽ thất bại nhất là về sự lãnh đạo cuộc chiến, tôi không tin là sẽ
tốt đẹp. Quan điểm của tôi như đã quyết định từ Genève 1954, không can dự vào
vấn đề Việt Nam, nhận định này dùng cho Cộng Sản nhưng cũng cho các ông, tôi sợ
các ông sẽ sa lầy khó rút ra”
Sau khi chính phủ Ngô-Đình Diệm bị lật đổ, trong hai năm có 8 chính phủ, mặc dù
được Mỹ bảo trợ nhưng không lãnh đạo được đất nước. Tất cả thành quả mà họ
Ngô-Đình xây dựng bị bị phá hủy hết, các đảng phái phong trào bị dẹp hết, 41
tỉnh trưởng bị thay thế.
Năm 1964 cuộc chiến gia tăng khi Johnson lên làm Tổng thống Mỹ.
Các Tướng lãnh làm đạo đức suy đồi so với thời ông Diệm. Họ nói bà Ngô-Đình Nhu
là một trong bẩy người đàn bà giầu nhất thế giới nhưng khi lưu vong bà chỉ lấy
thù lao qua các cuộc phỏng vấn để chăm lo cho các con nhỏ.
TT Kennedy bị ám sát, chính phủ Johnson đương đầu với Việt Cộng, Nguyễn Hữu Thọ
Chủ tịch mặt trận giải phóng tuyên bố với ký giả Úc Wilfrid Burchett
“Chế độ Ngô-Đình sụp đổ là món quà tự trên trời rơi xuống cho chúng tôi”
Chương 4 Một khía cạnh khác
Sách nói về nhà Ngô-Đình thường viết “ngược đãi Phật giáo, độc tài, tàn
ác, thối nát” ngừòi ta cũng kết án Tổng thống Diệm không tôn trọng Hiệp định
Genève, không thực hiện Tổng tuyển cử … những nhận định trên vô căn cứ, dưới
đây là những quan điểm hợp lý.
Về Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước nó chỉ được chính phủ Pháp và chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Việt Minh) ký đã bị chính phủ Việt Nam Cộng Hòa,
chính phủ miền nam VN tương lai của Ngô-Đình Diệm bãi bỏ.
(Thực ra hồi đó gọi là Quốc Gia Việt Nam, État du Việt Nam
chứ không phải Việt Nam Cộng Hòa, République du Việt Nam như tác giả nói, TĐ)
Mỹ cũng không ký, trong đó có Trung cộng, Nga, Anh. Phần nói về
bầu cử thống nhất hai miền không có bên nào ký không có giá trị, tuy nhiên miền
nam đòi bầu cử được bảo đảm trong sáng.
Trái lại CS vi phạm Hiệp định Genève, xâm nhập, khủng bố miền nam đã bị
Ủy hội quốc tế phản đối nhiều lần. CS với mục đích bá chủ và không tôn trọng
Hiệp định Paris
(1973) mặc dù Kissinger và Lê Đức Thọ được phát giải Nobel hoà bình nhưng Hiệp
định lại bị CS vi phạm. CSBV xâm lăng miền nam VN tháng 4-1975 lợi dụng Mỹ suy
yếu vì vụ Watergate.
Về vụ Phật giáo lịch sử đã chứng minh một huyền thoại lớn để chống TT
Ngô-Đình Diệm. Bà Ngô-Đình Nhu cho biết cuộc khủng hoảng này như cơn gió thổi
ngược chiều bởi những phe đối nghịch từ nhiều phía Việt Nam , Pháp, Mỹ và CS.
Trước vụ một nhà sư tự thiêu 1963 mà báo chí thế giới đã phổ biến không
có ai chống đối chính phủ Diệm cầm quyền từ 1954. Tháng 5-1963 truyền thông
phóng đại kết án chính phủ Công giáo Ngô-Đình Diệm gây nhiều tội ác nhưng dưới
sự lãnh đạo của chính phủ Diệm chùa chiền phát triển nhiều. Một nghìn hai trăm
bẩy mươi lăm (1275) ngôi chùa mới được xây dựng. Chùa Xá Lợi được xây dựng nhờ
Tổng thống tặng 600,000 đồng, một ngàn hai trăm chín mưoi năm (1295) ngôi chùa
được trùng tu, như vậy số chùa đã tăng lên 200%. Về phía Thiên Chúa Giáo số nhà
thờ chỉ tăng 30%.
Trong số 18 Bộ trưởng của chính phủ chỉ có 5 người Thiên Chúa Giáo, hơn
nữa chỉ có 3 trong 19 Tướng lãnh là Thiên chúa giáo. Trong số 113 dân biểu 75
người là Phật giáo, phó Tổng thống và ngay cả Tỉnh trưởng Huế, (nơi xẩy
ra vụ Phật giáo) là người theo đạo Phật.
Ông Diệm trả lời một ký giả nói
“Tôi đâu có điên, chín năm cầm quyền trong lúc có chiến tranh lại đi đàn áp”
Tổng thống thành lập Ủy ban để giải quyết vấn đề Phật giáo, khi
phái đoàn hai bên ký thông cáo chung ngày 16-6-1963, vấn đề được giải quyết
xong, Phật giáo thỏa mãn.
Thích (Thượng tọa,Vénérable) Trí Quang là nhà sư giả, ông ta là CS, ông
thành lập Phật giáo cấp tiến tổ chức tự thiêu liên tục, TT Diệm cho khám chùa
thấy nhiều truyền đơn chống chính phủ và cả vũ khi súng gươm. Thượng tọa Thích
Thiện Hòa, phái Cổ sơn môn kêu gọi chấm dứt biểu tình, tuyệt thực, hoạt động
chính trị. Trong số 4,000 ngôi chùa, 12 chùa bị đóng cửa đã dược mở lại tại Sài
Gòn , 250 ngàn người biểu tình ủng hộ Ngô tổng thống do các Thanh niên Cộng Hòa
kêu gọi.
Ủy ban điều tra Liên Hiệp Quốc được chính phủ VN mời vào điều tra từ
24-10 tới 3-11-1963, Ủy ban tuyên bố không có đàn áp Phật giáo. Ngày 7-12-1963
họ soạn tờ trình 234 trang, Ủy ban gồm thành viên các nưóc Afghanistan, Brésil,
Thái Lan, Costa Rica, Dahomey, Maroc, Népal.
Tòa Đại sứ Mỹ cho ông Thích Trí Quang tỵ nạn nhưng lại từ
chối không cho ông Ngô-Đình Cẩn tỵ nạn.
Johnson, người chống đảo chính , thừa hưởng chính quyền, năm 1968 ông ta
đưa tổng cộng 536,000 quân Mỹ vào VN, quân VNCH tăng từ 820,000 người lên
968,000 người. Nixon lên nhậm chức TT năm 1969 tìm hòa bình, ngày
27-1-1973 ký kết Hiệp định Paris, tổng cộng có 55,000 quân Mỹ chết tại VN.
Lấy lý do muốn thắng CS nhanh nên họ đã tổ chức cuộc đảo chính. Từ
2-11-1963 tới 2-7-1976, 13 năm cuộc chiến đẫm máu tàn phá đất nước, giết hại
hàng triệu người. Cả thế giới thấy ông Đại sứ Mỹ cuốn cờ trên nóc tòa Đại sứ
chạy. Hôm sau ngày 30-4-1975 bà Ngô-Đình Nhu trả lời phỏng vấn đài MBC nói: Sức
mạnh quân sự Hoa Kỳ để làm gì hay chi để chạy?
Ngày 17-4 Khmer Đỏ vào Nam Vang, ngày 30-4 Việt Cộng vào Sài Gòn,
ngày 29-11-1975 Lào thành lập chính phủ Cộng hòa nhân dân, ngày 2-7-1976 thống
nhất nước Việt Nam, Đông Dương vào tay CS.
Dưới ánh sáng sự thật làm sao giải thích những lời vu khống anh em
Ngô-Đình và sự yên lặng vẫn phủ nhận sự thật.
Tháng 6-1964, bà Nhu, Lệ Thủy 19 tuổi được báo Truth Rally mời sang
Mỹ phỏng vấn, họ muốn tìm thêm những gì khác lạ nhưng chính phủ Mỹ không cấp
Visa lấy lý do an ninh quốc gia. Tại sao hai người đàn bà đến một siêu
cường có thể ảnh hưởng an ninh quốc gia?
Khủng bố đe dọa Tây phương, người ta khám xét tại phi trường thì không ai
coi chính phủ đó là độc tài.
Chính phủ Ngô-Đình Diệm lại không có quyền tương tự như vậy
sao?
Báo chí, giới trí
thức, chính trị gia đòi phải có dân chủ tại VN (miền nam) trong khi đang có
chiến tranh, khủng bố.
Trên thế giới có hàng triệu thanh niên chống cuộc chiến tranh mà họ chẳng
biết gì. Nếu không có hàng triệu người vượt biển cuối thập niên 70, đầu 80 trốn
CS có lẽ huyền thoại Việt Cộng yêu nước vẫn còn. CS chiếm miền nam, họ tàn phá
đất nước thì truyền thống Tây phương im lặng cho tới khi hàng nghìn, hàng vạn
người VN vượt biển.
Hai anh em Diệm-Nhu tỏ ra người cầm quyền Thiên Chúa Giáo đạo đức
đối với cuộc đảo chính phản bội. Người ta không thể làm cho người chết sống lại
nhưng ít ra phải có công lý và sự thật cho họ.
Cuối cùng phải kể đến trách nhiệm của những người gây nên
nhưng cái chêt ây và gây thảm kịch cho VN
Sự tòng phạm về tinh thần mà thế giới và Giáo hội không thể
cho phép.
Trọng Đạt lược dịch