BÁC SĨ NGUYỄN ĐAN QUẾ
VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI VÀ HẢI ĐẢO VIỆT NAM
1858 Pháp nổ phát súng đầu tiên đánh vô Đà Nẵng.
1862 Pháp chiếm miền Nam.
1884 đặt ách thống trị trên toàn quốc Việt Nam.
1895
Pháp vẽ bản đồ Đông Dương sau khi ký hiệp ước với triều đình Mãn Thanh
ấn định biên giới dài 1300 km giữa Việt Nam và Trung Cộng.
1928
Để chống Pháp, Hồ Chí Minh thành lập đảng Cộng Sản Đông Dương, hoạt
động ở cả Việt –Miên- Lào, với sự trợ giúp của đảng Cộng Sản Trung Cộng.
Năm
1941, Hồ Chí Minh về Việt Nam lập chiến khu dọc theo biên giới tiếp
giáp với Trung Cộng. Để bảo đảm an toàn, đoạn đường chót tầu hỏa và
đường bộ của Trung Cộng ăn sâu vào lãnh thổ Việt Nam có nơi 500 mét,
nhiều nơi đến cả cây số và dùng nơi này làm cơ quan đầu não, huấn luyện
cán bộ, dưỡng quân, tiếp nhận và cất dấu vũ khí. Nếu Pháp hành quân hay
dùng máy bay oanh tạc vùng này, Trung Quốc sẽ la ầm lên là vi phạm lãnh
thổ của họ.
1972
Trung Cộng ký thông cáo chung Thượng Hải với Mỹ để lộ rõ ra chiều hướng
chuyển từ đối đầu sang hợp tác, cho phép Mỹ rút quân ra khỏi miền Nam
Việt Nam kéo theo tiến trình giải quyết chiến tranh VN với hiệp định
Paris ra đời vào ngày 27-1-1973.
Tháng
Giêng năm 1974, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ quần đảo Hoàng Sa
giao chiến với Hải Quân Trung Cộng. Quần đảo này nằm ở 14o 30’ – 17o00’
độ vĩ bắc và 111o 30’- 114o00’ độ kinh đông, ngang ngoài khơi tỉnh Đà
Nẵng. Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà đi vòng đánh từ Bắc xuống, Hải Quân
Trung Cộng đánh bọc hậu từ phía Nam lên. Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa
thua, Trung Cộng chiếm giữ đảo và giam giữ một số tù binh nhưng đối xử
tử tế và sau đó thả cho về. Sự việc xẩy ra chỉ hai ngày sau khi Ngoại
Trưởng Mỹ Henry Kissinger gặp những nhà lãnh đạo Bắc Kinh. Mỹ không lên
tiếng và Hải Quân Mỹ đang tuần tra trong vùng khi xảy ra xâm lăng đã
phớt lờ không can thiệp, bênh vực Hải Quân VNCH, nhưng điều kinh ngạc và
nổi bật nhất là chính quyền Hà Nội đã không có một lời phản kháng. Nếu
Hà Nội tự nhận là đại diện hợp pháp cho Việt Nam và nếu họ còn cho Hoàng
Sa là của Việt Nam thì trên phương diện pháp lý họ phải lên tiếng phản
đối Trung Quốc xâm lăng và xác nhận chủ quyền khi một cuộc xâm lăng như
thế xẩy ra. Cũng trong thời gian này, Trung Cộng, Việt Nam Cộng Hòa,
Malaysia, Philippine, Brunei lên tiếng đòi chủ quyền quần đảo Trường Sa
ngang ngoài khơi Vũng Tàu.
Từ
năm 1975 đến cuối năm 1978, biên giới Việt Nam - Campuchia triền miên
rối loạn. Đầu năm 1979 Việt Nam tiến quân sang Campuchia. Trung Quốc
liền ra tay đánh vào biên giới phía Bắc của Việt Nam, nói là trừng phạt
dậy cho Việt Nam một bài học, Trung Cộng coi vùng mà trước đây Hà Nội
giao cho họ nhờ bảo đảm an toàn dùm là phần đất của họ.
1991
Việt Nam và Trung Cộng nối lại quan hệ ngoại giao. Vấn đề biên giới
trên bộ và trên biển được đặt ra thương thảo lại, nhưng khi ngồi vào bàn
hội nghị, Việt Nam bị thất thế vì Trung Cộng đưa ra những văn kiện ký
kết năm 1958 giữa hai chính phủ và hai đảng và vì đã không lên tiếng xác
nhận chủ quyền ở Hoàng Sa khi sảy ra cuộc xung đột năm 1974 giữa Trung
Cộng và Việt Nam Cộng Hòa. Hà Nội muốn trở lại đường biên giới ký kết
giữa Pháp và triều đình Mãn Thanh, nhưng Bắc Kinh bác, bắt phải dựa trên
những ký kết với nhau trong quá khứ, lấy lý do là hai đảng vẫn còn hiện
hữu mà lại đang nắm chính quyền, không có chuyện công nhận những việc
mà phong kiến và thực dân thiết lập. Phiá Việt Nam đuối lý, đành ngậm bồ
hòn làm ngọt, nhượng bộ hoàn toàn những đòi hỏi của Trung Cộng, mất gần
1000 km2 trên vùng biên giới phiá Bắc. Thua me gỡ bài cào, Hà Nội dở
trò tiểu bá lấn chiếm biên giới Lào và Campuchia. Phiá Lào và Campuchia
muốn trở lại đường biên giới mà Pháp vẽ năm 1895, nhưng Việt Nam lại bác
bỏ, chỉ muốn dựa trên cột mốc mới ấn định bởi một vài văn kiện do Hà
Nội ép Lào và Campuchia ký hồi gần đây, lưu manh hơn nữa là Hà Nội đưa
dân đến lập nghiệp chiếm cứ những vùng đất ăn gian. Hiện nhân dân Lào và
Campuchia rất phẫn uất về vụ này.
Cuối
năm nay 2001, Quốc Hội bù nhìn Việt Nam mới lén lút thông qua hiệp ước
về biên giới Việt - Trung. Không một người dân nào được biết rõ nội dung
của bản hiệp ước này, Hà Nội chỉ loan báo vắn tắt là hai bên sẽ cắm mốc
biên giới vào đầu năm 2002. Chúng ta đòi hỏi nhà cầm quyền Hà Nội phải
công bố đầy đủ chi tiết về bản hiệp ước biên giới này và chúng ta sẽ
không công nhận bất cứ nhượng bộ nào về đất đai cho ngoại bang.
Vấn đề Hoàng Sa & Trường Sa:
Nhờ
những tiến bộ về khoa học nhất là trong phạm vi kỹ thuật vi điện tử
nhân loại đã bắt đầu có thể khai thác tài nguyên ở dưới đáy biển. Lục
địa chỉ chiếm có 29% diện tích của trái đất và nguồn tài nguyên đã cạn
vì bị khai thác dòng dã qua bao nhiêu thế kỷ trong khi đó biển cả chiếm
đến 71% mà tài nguyên phong phú còn nguyên vẹn chưa từng bị khai thác vì
không có kỹ thuật. Do đó, lục địa không còn là miếng mồi ngon cho các
siêu cường tranh chấp nữa, mục tiêu béo bở bây giờ là đáy biển. Trước
đây, khi sức mạnh chi phối thế giới là quân sự, một số các hòn đảo được
coi là quan yếu vì là vị trí chiến lược giúp cho vấn đề hành quân. Nhưng
nay sức mạnh chi phối thế giới đang chuyển dần sang kinh tế, một số
những hòn đảo khác đột nhiên trở thành quan trọng vì có liên quan trực
tiếp đến bản đồ tài nguyên dưới đáy biển. Hoàng Sa và nhất là Trường Sa
nằm trong trường hợp này. Chính vì vậy mà qua bao nhiêu thế kỷ không có
những tranh chấp gì về hai quần đảo này nhưng đùng một lúc vào năm 1974
nhiều nước đã nhao nhao lên đòi chủ quyền về hai quần đảo này.
Vấn
đề khai thác đáy biển dẫn đến vấn đề phân chia tài nguyên dưới đáy
biển. Chắc chắn các siêu cường nắm kỹ thuật cao muốn soạn thảo các luật
có lợi cho mình. Đã có đề nghị: Đáy biển sâu hơn 200m thuộc về tất cả
các nước. Xuống sâu hơn 200m ai có kỹ thuật khai thác tài nguyên kiếm
được sẽ thuộc về người đó. Ai cũng hiểu là chỉ có các siêu cường giầu có
mới có đủ điều kiện và kỹ thuật để làm.
Vấn
đề khai thác lòng biển và đáy biển sẽ còn nhiều tranh cãi và tranh
chấp. Một số nước đã đơn phương tuyên bố thềm lục địa thuộc về quốc gia
họ dài tới 200 hải lý, hải phận nước này chồng lên hải phận nước kia gây
nên tranh chấp liên quan đến nhiều quốc gia. Các nước giầu thực sự quan
tâm đến phạm vi rộng lớn hơn nhiều đó là khai thác tài nguyên sâu trong
lòng đáy biển ở trong hải phận quốc tế. Đối với các đảo mà chủ quyền
không rõ ràng có nhiều nước tranh chấp, họ có chiều hướng ủng hộ quốc tế
hóa những đảo đó, nhằm có bảo đảm về an ninh và không bị quốc hưũ hóa
trong khi khai thác . Vì lợi nhuận nhiều, họ sẵn sàng trả tiền thuê cao,
các quốc gia tranh chấp sẽ chia nhau theo một thỏa thuận nào đó.
Lập trường của dân tộc ta:
Chúng
tôi quan niệm rằng, đất nước Việt Nam là của chung cho mọi người dân
Việt Nam, tất cả mọi công dân Việt Nam, trong cũng như ngoài nước đều có
bổn phận bảo vệ lãnh thổ, tài nguyên của Việt Nam do tiền nhân đã dày
công để lại. Không ai được độc quyền yêu nước và cũng không một ai, một
đoàn thể hay đảng phái nào trong bất cứ hoàn cảnh nào có thể nhân danh
dân tộc Việt Nam ký kết những văn kiện bán nước cho ngoại bang. Trên căn
bản đó, chúng tôi đề nghị:
Về
vấn đề biên giới trên bộ: Nhân dân ta không bị ràng buộc bởi hiệp định
phân định đường biên giới trên bộ mới ký kết năm 2001 giữa Hà Nội và Bắc
Kinh và cũng sẽ không công nhận cột mốc sắp cắm mà chỉ coi đây như một
bước sai lầm đâm lao phải theo lao của Bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt
Nam, đặt quyền lợi của đảng trên quyền lợi tổ quốc, dâng đất để được
Trung Cộng ủng hộ, hy vọng được tiếp tục ngồi lại thống trị nhân dân ta.
Nhân dân ta không coi những thỏa thuận ngầm giữa Hà Nội và Bắc Kinh là
có giá trị, toàn bộ vấn đề biên giới trên bộ phải trở lại bản đồ do Pháp
vẽ năm 1895 cho cả ba biên giới tiếp giáp Trung Quốc, Lào và Campuchia.
Sở dĩ chúng tôi đề nghị dùng bản đồ này vì đây là bản đồ đầu tiên được
vẽ một cách khoa học và vô tư bởi các chuyên viên về địa dư của Pháp.
Chỉ có dùng bản đồ biên giới do Pháp vẽ chúng ta mới hy vọng tránh khỏi
những tranh chấp triền miên và tạo đuợc một nền hòa bình vĩnh cửu cho
bán đảo Đông Dương. Nhân dân ta cũng tố cáo trước dư luận trong nước và
quốc tế sự hèn hạ của tập đoàn Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam để
mất đất tổ tiên để lại cho Trung Cộng nhưng lại đi hiếp đáp chiếm đất
của Lào và Campuchia.
Về vấn đề hải đảo: Nhân dân ta muốn giải quyết hòa bình những tranh chấp về các hải đảo dựa trên:
- Luận cứ các bên đưa ra dính đến sự hiện diện từ xưa trên đảo.
- Nằm nhiều ít trên thềm lục địa.
- Luật biển của Liên Hiệp Quốc năm 1982.
- Bảo đảm quyền lợi và an ninh cho giới khai thác tài nguyên đáy biển.
Điều
cần nêu lên ở đây là các cường quốc muốn quốc tế hóa các hải đảo đang
tranh chấp để khai thác kinh tế với quy chế hư chủ, nghĩa là các nước
đang tranh chấp là chủ nhưng không được có các hoạt động quân sự và
không có quyền quốc hữu hóa ngược lại họ có quyền tham gia vào các cuộc
thương thảo trong việc khai thác vùng biển xung quanh các đảo này và
chia lợi nhuận. Trong mọi trường hợp các nước khai thác tài nguyên đáy
biển cần theo đúng luật lệ và các hiệp ước quốc tế không được ỷ mạnh làm
càn. Tóm lại, một cách tổng quát, quyền lợi của các nước tranh chấp sẽ
được giải quyết tính toán theo vị quan trọng của những đảo này trong bản
đồ tài nguyên đáy biển. Chúng ta cần nắm vững những điểm này để bảo vệ
quyền lợi đất nước trong những cuộc thương thảo tương lai về quy chế của
các đảo này.
BS Nguyễn Đan Quế