Nguyễn Vi Khanh
Triết-lý Việt-Nam qua tục-ngữ
Trong kho
tàng văn chương dân gian truyền khẩu Việt-Nam, tục-ngữ - còn
gọi là ngạn-ngữ
(1), là những dấu vết còn lại của ngôn ngữ thường ngày của con người
Việt Nam. Tục-ngữ, theo định-nghĩa, là những câu nói ngắn gọn có ý-nghĩa,
do dân gian và người trí thức trong xã hội nói ra, lưu hành và
truyền lại qua một hình-thức cấu trúc cú pháp riêng, thường có nhịp
điệu, có vần và có đối. Tục-ngữ có khoảng năm ngàn câu, được dùng
trong đời sống thường nhật, trong các đối thoại, lời nói.
Khởi
đầu là những ý tưởng, nhận xét đơn sơ, về những sự việc hay vật cụ
thể, đơn giản, về sau trở nên xâu xa, triết lý, và thường lưỡng hoặc
đa nghĩa. Nói khác đi, tục-ngữ là toàn bộ những kiến thức và túi
khôn người xưa đã để lại cho con cháu, một kho tàng tích lũy từ
nhiều thế kỷ, một số thông-điệp về nhân-sinh, vũ trụ. Tổ tiên Việt-Nam
ta một mặt đã tranh đấu, chống chọi với thiên nhiên và thù-địch (Hán,
Hoa, Mông-Cổ, Mãn Thanh, Chiêm, Xiêm, Pháp, v.v.) và để lại cho
chúng ta hôm nay một giang sơn gấm vóc, mặt khác đã để lại một gia
tài ngôn-ngữ về cách ăn nói, lời nói, xử thế, về học làm người, luân
lý, những hiểu biết và ký-ức tập thể về nhiều địa hạt như thiên văn,
chiêm-tinh, canh nông, lý-số, phong tục, v.v.
Về thời
tiết, thiên văn, canh nông (một số đa nghĩa có mục đích luân lý): "được
mùa lúa, úa mùa cau / được mùa cau đau mùa lúa"; "hớp Đông nhay nháy,
gà gáy thì mưa"; "trăng mờ, tốt lúa nỏ; trăng tỏ, tốt lúa sâu"; "tháng
Bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão"; "rau nào sâu ấy"; "nhai kỹ no
lâu, cày sâu lúa tốt"; "không có lửa sao có khói"; "đêm tháng Năm,
chưa nằm đã sáng", " thiếu đất trồng dừa, thừa đất trồng cau", v.v.
Về kinh
nghiệm sống và tâm lý con người : "ở bầu thì tròn, ở ống thì dài"; "bố
dòng lấy được gái tơ / đêm nằm mê mẩn như Ngô được vàng"; "trai tơ
lấy phải nạ-dòng / như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu"; "nhất nước,
nhì phân, ba cần, bốn giống"; "đàn bà cạn lòng như đĩa / đàn ông bạc
nghĩa như vôi"; "thứ nhất đau đẻ, thứ nhì ngứa ghẻ, hờn ghen"; "gái
chồng rẫy chẳng chứng nọ thì tật kia", v.v.
Trước
hết, cần phân biệt tục-ngữ với thành-ngữ, câu đố và ca-dao. Thành-Ngữ
là những cụm từ, lời để nói, có chức năng của từ (chứ không
bao giờ là câu) để được xử-dụng trong diễn-văn, để nói lên
một ý, một mục-đích nhắm tới; cụm-từ có sẵn nhưng ý và phát-ngôn thì
phải chờ người xử-dụng chúng lồng vào, sáng tạo, như "anh hùng rơm",
"khôn nhà dại chợ", "da ngựa bọc thây", v.v.. Trong khi đó, tục-ngữ
là những câu nói hoặc cụm-từ tự phát ngôn với đầy đủ ý-nghĩa đã có
sẵn, như ... cỗ đã dọn, diễn văn đã soạn, dù về hình thức có khi
cũng giống như thành-ngữ, những cụm danh từ, động từ (tấc đất, tấc
vàng). Còn Câu Đố thì nhắm cuộc chơi hơn thua, giải trí,
sinh hoạt tập thể; và cũng như tục ngữ., câu đố thuộc phần trí tuệ,
dựa vào quan sát, thông minh. Có một số câu đố xuất phát từ tục ngữ
nhưng ngược lại, không hề có tục ngữ gốc từ câu đố!
Với
Ca Dao (và phong-dao), sự so sánh đôi khi khó hơn, nhưng
có thể nói một cách tổng quát, ca-dao thường trữ tình, kể lể dài
dòng, trong khi tục-ngữ thiên về lý-trí, dạy khôn, có nội-dung triết
lý, tư tưởng. Tục-ngữ khởi đầu là những cụm từ có nghĩa, những câu,
nhưng rồi với thời gian truyền tụng và ảnh hưởng của ca-dao đã dùng
hình-thức câu lục bát và thay đổi kết cấu, như "bầu ơi thương lấy bí
cùng / tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn", "mấy đời bánh đúc
có xương / mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng", v.v. Một số nhà biên
khảo đã nhập chung tục ngữ với câu đố, thành ngữ, là không đúng đắn,
khiến đánh giá sai giá-trị và nội-dung đặc-thù của tục-ngữ.
Một số
tục-ngữ xuất phát từ các tác phẩm văn học hoặc dân gian như truyện
Kiều, Lục Vân Tiên, ... và ngược lại, tục ngữ được đem vào văn thơ
cũng như ca dao và ngôn ngữ nói. "Thoa này bắt được hư không / Biết
đâu Hợp Phố mà mong Châu về" và "Ở đây tai vách mạch rừng" là Nguyễn
Du đem tục-ngữ vào truyện Kiều trong khi câu "thương người
như thể thương thân" vốn xuất phát từ tập Gia Huấn Ca.
Về ngôn-ngữ
học, tục-ngữ là những lời ăn tiếng nói, những câu nói thường có ý
nghĩa, tức là câu mà cũng có thể được xem như là những "tác-phẩm",
những thông-điệp nghệ-thuật. Tức la,ø tục-ngữ có những đặc điểm về
cấu trúc, về nghệ thuật và có những diễn văn đa nghĩa.
Tục-ngữ
hàm chứa triết-lý dân-tộc, phản ánh tâm thức Việt-Nam, và được lưu-truyền
từ đời này sang đời khác, miền đất này sang miền khác. Nếu huyền
thoại, truyền thuyết tạo nên tâm-điểm căn bản văn-hóa dân
tộc và hồn con người Việt Nam thì toàn thể tục ngữ là cẩm nang bí
quyết, là một "cuốn từ-điển" tiền nhân đã tích lũy theo thời gian và
để lại cho con cháu. Ở đây, chúng tôi xin bàn về nền tảng và nội-dung
triết-lý dân tộc qua tục-ngữ với hai phần chính : triết-lý văn-hóa
và triết-lý sống, hai triết-lý nồng cốt Việt-Nam.
1.
Triết-lý văn-hóa :
1.
Trước hết, tục-ngữ là kho tàng kiến thức và khôn ngoan về lẽ Trời,
về dịch lý, đạo làm người, ... Người ta vẫn hay nói đến chuyện
khôn dại như là phần chính của toàn bộ tục-ngữ. Cái khôn thường
trực trong tục-ngữ : "đi một ngày đàng, học một sàng khôn" và "khôn
ngoan chẳng đọ thật thà" là cái nên, còn "khôn nhà dại chợ" thì
không nên. Rồi "khôn sống, bống chết", "khôn ra miệng, dại ra tay"
hay "làm đầy tớ người khôn, hơn thầy người dại", "khôn cho người ta
dái, dại cho người ta thương / dở dở ương ương tổ cho người ta ghét",
"to đầu mà dại, bé dái mà khôn", v.v. Chuyện khôn dại tức nói đến
cái biết sống. Khi biết sống, biết suy xét, phán đoán thì ra
tay, hành động mới hiệu quả. Từ đó có nhiều tục-ngữ về đề tài khuyến
học như : "dao có mài có sắc, người có học mới khôn".
Khôn
ngoan và hiểu biết là lý tưởng, là chuyện nên, nhưng có những hoàn
cảnh, con người ta phải biết nhún nhường - như hoàn cảnh nước Việt
Nam nhỏ bên cạnh đại quốc như Trung Hoa: "ai nhất thì tôi thứ nhì /
ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba; "sông sâu, sào ngắn khôn dò / người
khôn ít nói, khôn đo tấc lòng". Cái khôn còn có khôn thật lòng với
khôn để trục lợi hay gian xảo : "khôn ngoan chẳng đọ thật thà / lửa
thưng, tráo đấu chẳng qua đong đầy".
Nhưng
cuộc đời có những hoàn cảnh khó khăn thì lúc đó,cái khôn trở thành
đáng tiếc, "cái khó bó cái khôn" và hiển nhiên còn có định mệnh :
"chẻ vỏ vẫn thua vận đỏ", "chạy trời không khỏi nắng" ! Nói định
mệnh để ... hy vọng, vì "ai giầu ba họ, ai khó ba đời"!
2.
Tục-ngữ là cả một kho tàng lý-sự đương nhiên, chân-lý từ
kinh-nghiệm : "mạnh được, yếu thua", "một sự nhịn, chín sự lành".
Muốn khôn ngoan, thì phải ôn cố tri tân; có hiểu rõ nguyên do
gốc ngọn, liên hệ việc này việc khác thì mới nhận chân, biết được
việc hôm nay phải đương đầu !
3. Vì
"đất có lề, quê có thói", nên lại có lời khuyên khôn
khéo trong việc làng: "lệnh làng nào làng ấy đánh / thánh làng nào
làng ấy thờ". Hơn nữa, "phép vua thua lệ làng" - nói lên tinh thần
xã-thôn tự trị. Làng là một tổ chức tự trị, một đơn vị cơ-bản của xã
hội Việt Nam, trên có vua nhưng dưới phải đến làng - chứ không bao
giờ trực tiếp đến dân đinh, cá nhân ! Nội bộ tổ chức xã hội thì : "sống
lâu lên lão làng", ... Hôn nhân cũng nhắm người cùng làng : "ruộng
giữa đồng, chồng giữa làng". Nhưng trai tráng thì có lúc cũng phải
nhắm xa hơn, "sống ở làng, sang ở nước". Tục-ngữ như vậy còn cho ta
biết về phong tục Việt-Nam, có hay mà cũng có dở : "cao nấm, ấm mồ",
"một miếng giữa làng, bằng một sàng xó bếp ", hay về phép tắc ở đời
"ăn trông nồi, ngồi trông hướng" !
4.
Tục-ngữ còn có một nội dung lịch-sử, cho biết về một số hiện
tượng lịch-sử và xã hội: "con dại cái mang", "miếng trầu là đầu câu
chuyện", "ăn lông ở lỗ", "con đóng khố, bố ở truồng", v.v. Cả ghi
lại dấu vết chế độ mẫu-hệ : "lệnh ông không bằng cồng bà". Chuyện
tang thương và chịu đựng của người dân thì cũng không mới lạ gì.
Người dân xưa cũng như nay, thường là nạn nhân của mọi tranh hùng,
chiến tranh, thay đổi triều đại hoặc lãnh đạo : "trâu bò húc nhau,
ruồi muỗi chết"! Tục-ngữ còn ghi lại những nơi địa linh nhân kiệt
hay nổi tiếng về trai cách mạng gái đảm đang: " trai Cầu Vồng, Yên
Thế; gái Nội Duệ, Cầu Lim", hay những sản phẩm đặc biệt điïa-phương:
"dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần; nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm
Sét", v.v.
5.
Triết lý làm người, đóng góp trong việc xây-dựng nhân-cách con
người Việt-Nam trong đó dựng nhà giữ nước là chính : "đã sinh ra
kiếp đàn ông / đèo cao núi thẳm sông cùng quản chi", "chớ thấy sóng
cả mà ngã tay chèo". Phải biết tạo thời cơ, vượt trở ngại: "nương
gió phất cờ", "theo gió phất cờ"và "sống đục sao bằng thác trong"!
Tục-ngữ, khi cần, khích lệ tinh thần chiến đấu, dù trong hoàn cảnh
"trứng chọi với đá" vì nếu đá là xâm lược thì "trời không dung đất
không tha". Vả lại, ta "không đội trời chung" với kẻ thù, kẻ xâm
lược!
Tục-ngữ
dạy con người phải luôn ăn ở phúc đức: "làm phúc cũng như làm
giàu", "đời trước đắp nấm, đời sau ấm mồ", đời cha làm việc phúc đức
thì đời sau con cháu sẽ được sướng, "thật thà là cha quỷ quái". Sống
thì siêng năng, cần kiệm, "làm khi lành để dành khi đau" và làm lành
gặp lành, làm ác gặp ác, "oan oan tương báo"!
Tục-ngữ
còn rèn dạy tính tình, chí khí, vạch đường đi cho con người : "đây
ta như cây giữa rừng / ai lay không chuyển ai rung không dời". Làm
sao để "chín người yêu hơn mười người ghét", và đã là người quân tử
thì "cát bay vàng lại ra vàng, những người quân tử dạ càng đinh
ninh" cũng như không nên đặt nặng chuyện vật chất mà mất tư cách :
"đói cho sạch, rách cho thơm" và "giấy rách giữ lấy lề"!
Phải
liều mình, can đảm, phải ra tay, đừng quá chần chừ "được ăn cả ngã
về không", vì "được làm vua thua làm giặc", và "thua keo này bày keo
khác". Ở đời người ta quý phục những kẻ tự sức mà thành công gầy
dựng cơ nghiệp "nước lã mà vã nên hồ, tay không mà nổi cơ đồ mới
ngoan"!
Con
người
là sáng tạo, là đầu mối. Con người đáng quý vì lẽ "người sống, đống
vàng", "người làm ra của, của không làm ra người", "người là vàng,
của là ngãi". Con người quý hơn của cải vật chất dù cần để sống,
nhưng đến một trình độ nào đó hoặc giai đoạn cuộc đời, thì vật chất
trở trành phù du !
6.
Tình yêu tổ quốc luôn đặt nặng, đừng vì một lý do gì mà "cõng
rắn cắn gà nhà", mà mê đồ ngoại, vì "gánh vàng đi đổ sông Ngô, đêm
nằm tơ tưởng đi mò sông Thương", ... hay phản trắc "nối giáo cho
giặc", chạy theo kẻ thù hôm trước "ăn một miếng, tiếng muôn đời"
những kẻ này "thăm ván, bán thuyền", trước "chống Cộng" đi chụp nón
cối cho người, sau trở cờ chạy theo kẻ thù để kiếm ăn hoặc vì lợi
riêng, nhiều khi rồi ra cũng chỉ là "theo voi hít bã mía"! Thật vậy,
"thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết là người có nhân" và cũng
nhờ thế mới biết "tốt gỗ hơn tốt nước sơn" ngay trong việc … yêu
nước!
Lòng ái
quốc, yêu quê hương đất tổ rất quan trọng, trong hoàn cảnh một dân
tộc luôn bị xâm lăng như Việt-Nam, nếu vì hoàn cảnh phải ly hương,
người Việt luôn sống trong tình huống "chim Việt cành Nam","ngựa Hồ
gió bấc", hướng về quê mẹ mà lòng trăm nỗi !
Tục-ngữ
dạy thương yêu đồng bào, người cùng giống nòi, vì "máu chảy ruột mềm",
vì "môi hở răng lạnh", rồi khi có trắc trở thì "một con ngựa đau, cả
tàu chê cỏ", ... Nếu vì nước vì dân mà vua phải chết "trẫm chết thì
trạng cũng già", do đó người chung cảnh ngộ, số phận thì phải chung
chịu phần số, đừng trách móc hoặc ... phản thùng, quen thói "áo cứ
tràng, làng cứ xã" không dám tự nhận tôi cũng có trách nhiệm làm tôi
mất nước !
7.
Trong xã hội xưa, chuyện học là con đường duy nhất để tiến thân,
hành thế, do đó nhiều câu tục-ngữ khuyến học. "Khôn dại" là
đề tài hay trở lại nhất (như đã trình bày ở trên) và tục-ngữ thường
đề cao giới sĩ : "một kho tàng không bằng một nang chữ" và
chữ nghĩa thánh hiền được thời xưa trân quý: "một chữ thánh, một
gánh vàng". Phải tu tập để có căn bản, nếu hãy còn "cắn cơm không vỡ"
thì phải tiếp tục, đừng ra đời vội! Phải luôn cố gắng "hữu chí cánh
thành", đừng nản chí, và "học bất như hành" cũng như không nên có
thói "ăn thật làm giả". Ngoài chuyện luyện kinh sử, học văn, luân lý
bình dân còn dạy thanh niên "văn ôn, võ luyện" để thành con người
toàn vẹn rường cột cho nước nhà, và nếu "học tài thi phận", học chữ
không thành thì học nghề khác, "ruộng bề bề không bằng nghể trong
tay", vì sau sĩ còn nông công thương là những ngành
thiết yếu cho xã hội, đất nước!
2.
Triết-lý
sống
Tục-ngữ
là một tổng kết những kinh nghiệm sống, là một triết lý nhân sinh
về sống ở đời, giữa những con người khác, một nghệ-thuật xử thế và
làm người. Một kho luân lý dân-gian, qua đó phản chiếu tinh thần của
cả một dân tộc. Luân lý, triết lý nhân-sinh này song hành với tư
tưởng luân lý Nho giáo chính thức của triều đình, chính trường.
1.
Kho tàng luân lý của tục-ngữ căn bản dạy con người đức
tính cần cù, lạc quan : "còn nước, còn tát"; "có công mài sắt
có ngày nên kim". Phải luyện tập để "chân cứng đá mềm" đối chọi với
mọi hoàn cảnh. Tục-ngữ đề cao đức thanh liêm: "tốt danh hơn
lành áo"; "đói cho sạch, rách cho thơm", đừng "bán gia tài mua danh
phận", vì miếng ăn dễ thành miếng nhục và cũng dễ thay đổi con người,
"no nên bụt, đói nên ma", v.v.
Thứ nữa,
luyện tinh thần thực tế: "có thực mới vực được đạo"; "nhất sĩ
nhì nông / hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ". Nói thực tế có khi
để an ủi: "con vua thì lại làm vua ..." hay "cá lớn nuốt cá bé", v.v.
Nếu làm ăn, hợp tác thì luôn nhớ phải "buôn tàu buôn bè không bằng
dè miệng", để tránh những thái độ chỉ gây thiệt hại cho mình vốn
phận thua thấp như "buôn chung với đức Ông" vậy!
2.
Luân lý
gia-đình, gia tộc:
Người Việt sống trước hết là sống trong gia đình, gia tộc. Cá nhân
không thật sự hiện hữu vì đã hòa tan trong
gia tộc, cá nhân vô nghĩa nếu không là thành phần của một gia tộc,
đơn vị cơ bản của đất nước - tên họ cũng phát xuất từ căn bản gia
tộc! Do đó người ta phải luôn nhớ công ơn tổ tiên hy sinh gầy dựng
mới có ngày hôm nay "ăn quả nhớ kẻ trồng cây", "uống nước nhớ nguồn",
... Không chỉ riêng tổ một gia đình, mà của cả tập thể dân tộc "chim
tìm tổ, người tìm tông" - một khía cạnh văn hóa mà cộng đồng hải
ngoại vì hoàn cảnh lịch-sử và chính trị, xã hội "sẩy đàn tan nghé"
sẽ phải đối đầu trong những năm và thế kỷ tới, khi mà các thế hệ con
cháu sống hội nhập với xã hội mới xa dần cộng đồng và đất nước gốc.
Tục-ngữ đã có câu đoán trước "ở đâu âu đấy" hay "bồi ở, lở đi", và
không ai có thể đoán được các thế hệ sau này có còn khuynh hướng "ta
về ta tắm ao ta"?
Nền
tảng của xã hội Việt-Nam là gia đình, tục-ngữ nhắc nhở đạo lý
làm người qua công ơn cha mẹ sinh thành, dưỡng dục : "công cha như
núi Thái Sơn / nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra", "mẹ con, một
lần da đến ruột ", v.v. Người trên lúc nào cũng thương yêu và hy
sinh cho người dưới, cha mẹ cũng vậy với con cái, còn ngược lại
chuyện con cái và người dưới thương cha mẹ và người trên thì ít hơn,
đó là lý do người ta nói "nước mắt chảy xuôi". "Tu đâu cho bằng tu
nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu". Đấy là đạo-lý Việt-Nam trước
khi đón nhận luân lý Nho giáo về tu thân trị quốc bình thiên hạ!
Riêng câu tục ngữ này còn nhắm chống mê tín dị đoan, chống những
thầy pháp, thầy số.
Nhưng
muốn có nền nếp như vậy, phải bắt đầu dạy trẻ ngay từ thuở bé và
liên tục đến trưởng thành vì "bé không vin, cả gẩy cành" và "đánh
cho chết cái nết không chừa"! Dạy con dù vậy không phải là chuyện dễ,
nên tục-ngữ cũng có những phán đoán : "Con hư tại mẹ / cháu hư tại
bà"; "cha nào / con nấy"; "trứng mà đòi khôn hơn vịt". Rồi mình đối
xử với cha mẹ mình ra sao, thì con cái mình sẽ đối xử với minh như
vậy : "bắc cầu mà noi, ai bắc cầu mà lội"!
Tục-ngữ
dạy ta quý trọng họ hàng và phải có tinh thần gia tộc "bà con vì tổ-tiên,
không phải vì tiền vì gạo", nhưng tránh lạm dụng, ỷ lại, kiểu "một
người làm quan, cả họ được nhờ" đưa đến hủ hóa, tham nhũng và mất
... tất cả! Ngược lại, phải hiếu-thuận, thương yêu đùm bọc người
thân "chị ngã, em nâng", "máu mô thâm thịt nấy", dù có họ xa, vì "máu
loãng còn hơn nước lã", "một giọt máu đào hơn ao nước lã" và "họ
chín đời còn hơn người dưng", nhất là ở vào những tình huống khó
khăn hay hoạn nạn thì "tay đứt ruột xót", tay hay ruột đều cùng một
chi-thể!
3.
Tình
huynh đệ
cùng chung máu mủ phải biết yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, "anh
em như chân như tay", "anh em hiền thật là hiền / bởi một đồng tiền
nên mất lòng nhau", cho nên mới có lời khuyên "anh em chém nhau bằng
xống, không ai chém nhau bằng lưỡi" - người xưa dạy anh em có bất
bình với nhau thì dùng lưng con dao mà chém lấy lệ cho đã tức, chứ
đừng dùng lưỡi dao mà giết nhau thật; lời khuyên còn tính thời sự có
thể áp dụng cho người Việt ở hải ngoại. Vì "anh em khinh trước, làng
nước khinh sau" - lời khuyên còn áp dụng được cho ngoài nước anh em
đồng nhóm, đồng đảng phái và cả người đồng hương với nhau tha hồ ẩu
đả cho người bản xứ và trong nước cười chê (dĩ nhiên trong nước cũng
không hơn gì)!
Như
vậy, so với người Trung Hoa, con người Việt Nam nặng tình gia-đình
hơn là gia tộc đại-gia-đình kiểu các bang, và cũng nhẹ trọng
nam khinh nữ hơn!
4.
Từ giáo dục gia đình đi ra triết-lý xã hội :
Tình
bằng hữu
rất quan trọng và cần thiết cho con người. Do đó nên "ăn bớt bát,
nói bớt lời" để giữ tình huynh đệ, tình đồng bào và giữ đoàn kết,
nên "ăn có nhai, nói có nghĩ", tránh tranh luận bôi bẩn nhau trên
báo chí, truyền thông, và "ăn cây nào rào cây ấy" chớ đừng "ăn cây
táo rào cây soan đào".
Tục-ngữ
dạy đoàn kết để còn lo chuyện chung bảo vệ đất nước: "một cây
làm chẳng lên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao", ... Người xưa
đã răn dạy "chim không đánh chim cùng một tổ / trâu một chuồng, đâu
có húc nhau" và "khôn ngoan đối đáp người ngoài / gà cùng một mẹ chớ
hoài đá nhau ... ". Ngay trong gia-đình mà đã "thuận vợ thuận chồng,
tát bể đông cũng cạn" - dĩ nhiên vẫn hơn là "việc người thì sáng,
việc nhà thì quáng" ! Cũng như tránh những thói xấu ích kỷ "ăn tìm
đến, đánh nhau tìm đi", hay gian xảo "gió chiều nào che chiều ấy" (khác
với "nương gió phất cờ").
5.
Làm việc cộng-đồng, tập thể, nếu đã là thiện nguyện, "ăn cơm
nhà vác ngà voi","ăn cơm nhà thổi tù-và hàng
tổng" là chuyện hy-sinh, thì phải biết tránh những cảnh "ăn trên
ngồi trốc","bắt cá hai tay", "ăn xổi ở thì". Đừng háo danh hoặc tham
quyền cố vị vì miếng đỉnh chung, vì muốn được gọi là ông này ông nọ
- thường là hão huyền, vớt vát, "một miếng giữa làng, bằng một sàng
xó bếp", và có khi mất tiền vì danh hư vốn phù du, "mua danh ba vạn,
bán danh ba đồng"! Mà đã dấn thân thì phải biết quyền biến, biết "cờ
đến tay ai người nấy phất". Cũng đừng tị-nạnh nhau "giữ nhau từng
miếng" mà không làm tới nơi tới chốn hay bỏ lơi chuyện làng nước lấy
cớ "cha chung không ai khóc" hay "lắm sãi không ai đóng cửa chùa".
Thay vào đó, phải tìm cách ra tay, đóng góp phần của mỗi người dù
nhỏ bé vì "góp gió thành bão", "kiến tha lâu đầy tổ"! Như vậy những
thái độ "vạch áo cho người xem lưng", "xui nguyên dục bị", "đánh
trống bỏ dùi" hoặc "đánh trống lảng" là phải tránh. Khi chuyện chung
gặp biến, đừng "ba chân bốn cẳng" chạy trốn, chê đám người "cá mè
một lứa" hay có thói "cả vú lấp miệng em" để tránh gánh việc chung,
vì biết đâu "cháy thành vạ lây", có chết thì cũng chết ... chùm! Vậy
làm việc chung là tiếp thừa công trình, thành công của người trước,
"người trước bắc cầu, kẻ sau theo dõi" mà đi, nhưng nếu có thất bại
thì cũng phải biết học kinh nghiệm "cái trước đau, cái sau rái"!
6. Đã
làm việc chung tức phải tránh chuyện nói xuông, "mẹ hát con khen hay",
"ông nói gà bà nói vịt" và già miệng "đa ngôn đa quá", mà không hề
ra tay hoặc làm lợi cho việc nước hay hy sinh cho tập thể! Cũng
không nên ác độc "khẩu Phật tâm xà", "tiếng bấc tiếng chì", "bới bèo
ra bọ". Thật vậy, "quá mù ra mưa" và "lắm thầy thối ma, lắm cha con
khó lấy chồng". Người léo lận thì lưỡi tàn độc : "lưỡi mềm độc quá
đuôi ong" hoặc "lưỡi không xương nhiều đường lắt léo". Mà một lời
nói công chính bao giờ cũng được welcome đón nhận: "một câu nói ngay
bằng làm chay cả tháng"; "khôn chẳng qua lẽ, khỏe chẳng qua lời",
một lời tốt được trân quý vì "lời nói, đọi máu" cơ mà, và ai lại
chẳng biết "yêu nhau lắm cắn nhau đau"!
Tránh
chuyện "nồi da xáo thịt", gây gỗ, phá phách nhau bất kể việc chung,
tránh thói "nhờ gió bẻ măng" lợi dụng cơ hội hoặc tình thế lộn xộn,
chia rẽ (ví dụ cụ thể ở nhiều cộng đồng người Việt ngoài nước), cũng
như không được có thói bất trung, phản trắc "ăn cháo đái bát", "ăn
mật trả gừng" hay ngu ngơ "trỏ đường cho hươu chạy", "dạy khỉ leo
cây", hay tệ bạc "cầm khoán bẻ măng", "đem con bỏ chợ", "chưa qua
cầu đã cất nhịp" hoặc "ăn cướp cơm chim" của giới trẻ hơn - bị "tránh
vỏ dưa gặp vỏ dừa"; mà phải nhớ luật tự nhiên "tre già, măng mọc"
nên biết lúc rút lui hoặc nhường … micro cho người trẻ, và tránh
những chuyện "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", tự ái, mà hỏng
chuyện chung ! Nói that, thì cổ nhân lại đã nhắc nhở "trung ngôn
nghịch nhĩ", biết làm sao giờ? Tránh làm xấu tập thể cộng đồng vì
"con sâu làm rầu nồi canh, một người làm đĩ xấu danh đàn bà", mà
phải biết tự giác, tự sửa, làm gương cho người khác, vì nếu "chân
mình thì lấm mê mê, đi cầm bó đuốc mà rê chân người" làm sao được!
Khi
tranh luận "ăn miếng trả miếng" hoặc cả khi chống nhau, nên tránh
những thái độ và lời nói không cao thượng, không tương xứng: "Chửi
cha không bằng pha tiếng"; "ăn đây nói đó"; "ăn ốc nói mò", cả chửi
bới nhiều, lâu, vì "ăn lắm thì hết miếng ngon, nói lắm thì hết lời
khôn, hóa rồ" dù có hậu ý ... bán báo, kiếm lợi nhuận riêng.
Ngược
lại, sống là phải biết hội nhập, tức biết "nhập gia tùy tục, đáo
giang tùy khúc", "liệu cơm mà gắp mắm"! Có hội nhập chính trị, xã
hội như đối với cộng đồng người Việt hải ngoại chẳng hạn, thì chuyện
tập thể mới dễ thành công, được chính quyền bản xứ nghe và cả phục
vụ, đáp ứng!
7.
Sốùng ở đời, phải biết ơn, đừng "được chim bẻ ná, được cá quên nơm".
Đoàn kết hoặc cư xử tốt với mọi người, kể cả người dưới, tránh cảnh
"cạn tàu ráo máng" mà tố nhau, đem cả chuyện đời tư hoặc lúc còn "tâm
đầu ý hợp" ra để bêu xấu ... "bạn"! Thầy học ngày xưa được tôn trọng,
kính mến, biết ơn: "không thầy đố mày làm nên", "thờ thầy mới được
làm thầy", "muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy", v.v.
Tư
cách,
danh dự là những mối lo của người xưa : "trâu chết để da, người ta
chết để tiếng"; "cá lên khỏi nước cá khô, làm thân con gái lõa lồ
ai khen?", vì "tốt gỗ còn hơn tốt sơn, xấu người đẹp nết, còn hơn
đẹp người" và "chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu". Và tục-ngữ
cũng khuyên không nên thề độc kiểu "chết đuối đọi đèn", v.v.
*
Như vậy,
tục-ngữ là một chức năng sinh hoạt trí thức, tiêu biểu cho tư duy
của dân-tộc. Một loại triết lý công-dân, một nền luân-lý dân gian,
một nền đạo lý làm người, một kim chỉ nam cho mọi người về nền tảng
xã hội, gia đình, trong đó tình tự dân tộc cũng như gia tộc được chú
trọng; tất cả để gầy dựng, xây đắp, nhắm lâu dài, tích cực. Tục-ngữ
như phương tiện để sống còn của dân tộc Việt Nam. Do đó những khôn
ngoan, kiến thức truyền đạt ở tục-ngữ có tính thực tế, cụ-thể và cần
thiết hơn là ca-dao và các truyền khẩu bình dân khác. Nếu có tình
cảm thì cũng đã được lý luận phối trí lại, thành thử lý ở tục ngữ
rốt cùng không cứng ngắc như kinh điển Nho học. Ngược lại, các huyền
thoại và truyền kỳ thì lại cho một chân dung khác về gia tài văn hóa
của người Việt, về hình nhi thượng, về lập quốc, ... - chúng tôi có
thể trở lại trong một dịp khác.
Tục-ngữ
là một thể-loại thuần túy Việt-Nam - Trung Quốc có hai
thể-loại tương đương nhưng ít phổ thông: Minh tức lời ghi
trên chỗ ngồi để dạy bảo, khuyên răn, thường 4, 5 chữ
(2); và Trâm thường 4 chữ, dùng để răn dạy. Cách gieo
vận ở tục ngữ ta không cần thiết, nhưng nếu có, thì khác hẳn thi ca
ảnh hưởng thơ chữ Hán : tục ngữ thường dùng cước-vận tức vần ở cuối
câu trên có thể vần với câu dưới ở trong hoặc giữa câu (yêu vận). Âm
vận dù đa dạng hay đơn giản, đều là đặc biệt của ngôn-ngữ Việt Nam.
Về nội dung, tục ngữ cũng là của riêng dân tộc Việt Nam. Do đó muốn
tìm hiểu hồn dân-tộc không thể bỏ qua kho-tàng này được, qua đó
chứng tỏ tiền nhân ta đã có một khối hiểu biết và kinh nghiệm và
luân lý khác với luân lý và triết lý chính thức Nho giáo, không khắc
nghiệt, hình thức - theo nghĩa ước lệ và khuôn mẫu! Nhờ vậy mà đất
nước và dân tộc ta sống còn và sống mạnh cho đến hôm nay sau những
chiến tranh, xâm lược, từ ngoài và phân tranh, chia rẽ ngay trong
nội bộ.
Xử dụng
tục-ngữ trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, nhất là ở ngoài nước, một
mặt sống như người Việt, và mặt khác làm sống và truyền thừa văn-hóa
Việt-Nam cho người khác và cho các thế hệ sau!
____________________________________
Chú thích
1- Ngạn-ngữ
: lời nói của người xưa
2- Một thí dụ:
Bài ghi trên chỗ ngồi của Thôi Tử Ngọc :
"Người xấu
chớ nên nói
Mình hay chớ nên khen
Làm ân chớ nên nhớ
Chịu ân chớ nên quên..."
(Phan Kế Bính,
dịch theo nguyên điệu. Việt Hán Văn Khảo (Sài Gòn : Mặc Lâm
tb, 1970), tr. 38).