Vén lên màn bí mật tại Việt Nam: Quặng bauxite hay quặng phóng xạ?
Mai Thanh Truyết (Danlambao)
- Trong hiện tại, chúng ta có thể nói một cách chính xác và không sợ
phản biện là những người lính Tàu dưới dạng công nhân đang hiện diện đầy
dẫy trên quê hương Việt Nam của chúng ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau,
giống như trường hợp của một số quốc gia trên thế giới như Tây Tạng,
Tân Cương, Phi Châu… những nơi có dấu chân Tàu cộng khai thác các công
trình quặng mỏ hay những công ty sản xuất khác tại những nơi này.
Cộng sản Việt Nam (CSVN) cũng như Trung Cộng (TC) cũng không thể nào chối cãi được nhận định trên. Tại Việt Nam, người Tàu dù dưới dạng công nhân hay chuyên viên, mỗi khi vào một công ty nào đó đều sinh hoạt hoàn toàn riêng rẽ, nói chuyện với nhau bằng tiếng Hán mà thôi. Họ xây dựng lều trại làm nơi ăn ở, giải trí và có cuộc sống hoàn toàn cách biệt với các cộng sự viên người Việt. Thậm chí, mỗi khi có tranh cãi, họ ăn hiếp, đánh đập công nhân Việt. Thật không có gì nhục nhã cho bằng hiện tượng nầy xảy ra ngay chính trên mãnh đất quê hương của mình mà cán bộ hay công an cố tình làm ngơ trước những nghịch cảnh trên.
Những khu biệt lập nầy do TC hoàn toàn quản lý mọi sinh hoạt, không có
người "lạ" nào hay cán bộ, công an Việt Nam có thể bén mảng đến được,
mặc dù những công ty họ làm việc, đa số đều do người Việt quản lý.
Cho đến hôm nay, những tệ trạng trên tiếp tục diễn ra ở khắp mọi nơi,
tạo nên một luồn sóng phẩn uất trong lòng người Việt, và thiết nghĩ
những người công nhân lương thiện nầy sẽ có ngày đứng lên dành lại quyền
công nhân thực sự và sẽ không để công nhân TC hiếp đáp mãi mãi được.
Những sự kiện tương tự cũng đã từng xảy ra ở những quốc gia có người Hán
xâm nhập, đôi khi đi đến đổ máu như ở Tân Cương, Tây Tạng, và tại thành
phố Alger, Algeria, qua những nguyên nhân hết sức cá nhân, nhưng từ đó
xảy ra những cuộc đụng độ có tích cách chủng tộc vì sự hống hách, ức
hiếp của người Hán trên mãnh đất quê hương của người bản xứ.
Trở lại Việt Nam, riêng tại hai vùng hiện đang là một trong những điểm
nóng ở Việt Nam; đó là Tân Rai ở Lâm Đồng và Nhân Cơ ở Đắk Nông. Hai nơi
nầy hiện đang được TC phát động kế hoạch khai thác quặng mỏ bauxite từ
hơn tám năm nay dưới sự đồng thuận của CSVN. Sau khi không thể bưng bít
được, năm 2009, CSVN đã phải bạch hóa công bố hai công trình trên mặc dù
đã ký kết với TC từ năm 2001 giữa Nông Đức Mạnh và Hồ Cẩm Đào, qua quá
nhiều áp lực của đông đảo từng lớp dân chúng ở quốc nội cũng như ở hải
ngoại cảnh báo về hiểm họa từ môi trường, kinh tế, chính trị, và quân sự
nếu để cho TC khai thác hai vùng nầy.
Nhưng trầm trọng hơn cả là qua việc nhường bước cho TC khai thác, CSVN
để lộ ra tinh thần quốc tế vô sản (?) (hay nô lệ!) trong việc hợp tác
với TC (bây giờ đã biến thành tinh thần quốc tế hữu sản chăng?). Và đây
cũng có thể được xem như là một tiến trình then chốt của việc tiến chiếm
Việt Nam không tiếng súng của TC.
Hiện nay đã có sự hiện diện của trên 10.000 công nhân TC ở Tân Rai và
Nhân Cơ. Từ nhiều năm qua, có nhiều câu hỏi được đặt ra cho tình trạng
nhân sự TC ở hai địa điểm trên là, tại sao họ có mặt từ năm 2008 mà cho
đến nay, vẫn chưa hoàn tất việc xây dựng nhà máy hoàn chỉnh, giải quyết
các vụ đuổi nhà, chiếm cứ các vườn trồng cây công nghiệp của dân như
trà, cà phê, cao su v.v… mà chỉ lo xây dựng chánh yếu là láng trại và
nhà ở cho công nhân và chuyên viên cùng những dịch vụ sinh hoạt khác
như giải trí riêng biệt và cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài bằng
hàng rào được thiết lập chung quanh? Đây là một tiến độ công trình
rất chậm so với số lượng nhân công hiện có và thời gian thi công. Và
điều nầy đang làm ngạc nhiên cho những nhà quan sát có kinh nghiệm về
hoạt động công trường.
Từ đó, câu hỏi khác được đặt ra là, họ có thực tâm đến đây để khai thác quặng mỏ bauxite hay không?
Hay là họ có những dự tính thâm độc nào khác mà việc khai thác quặng
mỏ bauxite chỉ là Diện để chứng minh sự có mặt của họ, và trọng tâm
chính của họ là Điểm, là khai thác một công trình bí mật nào khác?
Để trả lời và khơi mở một số nghi vấn trên, cũng như qua đề tựa của bài
viết, người viết xin lần lượt nêu ra nhiều giả thuyết qua các tin tức có
được để từ đó chứng minh sự hiện diện và hành động của TC trên mãnh đất
của quê hương Việt Nam.
1. Việc khai thác quặng mỏ Uranium
Cao nguyên Trung phần Việt Nam là một phần của cao nguyên Bolloven. Nơi
sau này là một vùng đất bazan, chuyển hóa từ phún xuất thạch của núi lửa
hàng triệu năm qua. Do đó, hàm lượng phóng xạ của vùng đất nầy rất cao
so với các vùng đất tự nhiên khác. Và xác suất có quặng mỏ Uranium cũng
rất cao.
Để có khái niệm về việc khai thác quặng mỏ Uranium, sau đây là quy trình
sơ lược dựa theo các nguyên tắc căn bản đang được sử dụng trên thế
giới. Thông thường quặng Uranium có được là do sự phối hợp của hai chất
đồng vị (isotope) Uranium: Uranium 235 và Uranium 238. U 238 được xem
như là đồng vị nặng vì có 3 electron nhiều hơn U 235. Chính U 235 mới
đích thực là tác nhân tạo ra nguồn năng lượng cho nhân loại và thông
thường có trữ lượng trong hỗn hợp quặng mỏ là 0,7% mà thôi.
Việc khai thác gồm:
- Quặng Uranium trong thiên nhiên cần phải được tách rời hai đồng vị 238 và 235;
- Sau đó Uranium 235 sẽ được tinh luyện (enrich) để đạt được nồng
độ Uranium cần thiết để ứng dụng trong nhiều mục tiêu khác nhau.
Việc tinh luyện Uranium gồm 3 phương pháp: ly tâm, khuếch tán vật lý, và
dùng tia laser. Các quốc gia như Pakistan, Ấn Độ, Bắc Triều Tiên hay
Iran vẫn còn đang áp dụng phương pháp cổ điển là ly tâm. Trong lúc đó, ở
các quốc gia phát triển khác như Hoa Kỳ và Tây Âu, hai phương pháp sau
được dùng đến vì có hiệu quả và năng suất cao hơn. Muốn chế tạo ra bom
nguyên tử, ít nhứt, nồng độ của Uranium cần phải đạt được là 80%. Đối
với các nồng độ thấp hơn, tùy thuộc vào những ứng dụng khác nhau trong
việc dùng trong các nhà máy phát điện nguyên tử hay các hệ thống an toàn
trong một số dịch vụ thật chính xác trong quy trình sản xuất mà con
người không đủ khả năng để điều chỉnh bằng tay hay mắt được.
2. Trung Tâm Nguyên Tử Lực Cuộc
Đây là một trung tâm nghiên cứu về nguyên tử và phóng xạ được người Pháp
xây dựng từ giữa thập niên 50 ở thế kỷ trước. Hiện nay, Trung Tâm vẫn
còn hoạt động. CSVN dùng Trung tâm nầy để sản xuất các dụng cụ, hệ thống
sensor để kiểm soát hay vận hành những khu vực hiểm yếu trong các công
nghệ như khai thác mỏ than, hay các thiết bị kiểm soát trên tàu bè, cũng
như trong các lãnh vực kiểm soát các valve an toàn về áp suất hay nhiệt
độ, hoặc điều chỉnh một cách chính xác việc thay đổi điều kiện trong
các quy trình sản xuất. Quan trọng hơn cả là việc ứng dụng vào các valve
an toàn khi có vấn đề cấp bách trong vận hành để hạn chế hay tránh tai
nạn.
Hiện tại, Việt Nam đang nhập cảng nguyên liệu phóng xạ từ nước ngoài.
Câu hỏi được đặt ra nơi đây là, tại sao người Pháp cho lấp đặt Trung
Tâm tại Đà Lạt vào thời điểm trên, trong khi quốc lộ 20 nối liền Sài Gòn
và Đà Lạt chỉ là một con lộ thô sơ, chưa được tráng nhựa đẩy đủ?
Phải có điều gì bí ẩn khiến cho họ thành lập Trung Tâm trên?
Để trả lời hai câu hỏi nầy, phải chăng là họ muốn xây dựng Trung Tâm gần
nơi vùng có phóng xạ để nghiên cứu, thăm dò, và khai thác nguồn nguyên
liệu phóng xạ tại chỗ?
Ngược dòng lịch sử, trong giai đoạn chiếm đóng ngắn ngủi của Nhật Bổn
vào thế chiến thứ hai, họ cũng đã gởi nhiều phái đoàn địa chất để thăm
dò vùng nầy. Và trong thời gian chiến tranh Mỹ-Việt, nhiều phái đoàn
nghiên cứu của Hoa Kỳ cũng đi lại thường xuyên trên vùng Bolloven nầy.
Thêm một nguồn tin từ một giáo sư hiện ở Phoenix, vào cuối năm 1944, một
chiếc tàu Nhật trên đường từ Việt Nam trở về Nhật bị quân đội Đồng minh
đánh chìm vì bị nghi có chở một số mẩu quặng Uranium lấy từ Cao nguyên
Trung phần.
Thêm nữa, người Mỹ đã thiết lập Đại học Nông Lâm Súc tại Bảo Lộc từ năm
1960, trong đó có xây dựng một phòng thí nghiệm “đặc biệt”, chì có nhân
viên Mỹ làm việc trong đó mà thôi, qua lời của một kỹ sư NNA, hiện ở San
Diego cho biết. Và trong thời gian chiến tranh Việt Nam, con đường từ
đèo Ngoạn Mục (Bellevue) được mở rộng ra đến Cam Ranh và hàng ngày có
hàng trăm xe bít bùng lớn từ trong núi chạy thẳng về hải cảng Cam Ranh
cũng theo lời kỹ sư NNA.
Tất cả đều được giữ bí mật. Không có một báo cáo khoa học nào
công bố về vấn đề trên hay cho biết vùng đất nghiên cứu có chứa nguồn
nguyên liệu phóng xạ Uranium hay không?
3. Giả thuyết về sự hiện diện của TC trong vùng Cao nguyên Trung phần
Ngày 21 tháng 4 năm 2009, tại Công ty NWT Uranium Corp. ở Toronto,
Canada, Ông Chủ tịch Tổng Giám Đốc John Lynch đã công bố bản tin sau khi
họp với đối tác là Việt Nam rằng: "Công ty đã đồng ý trên nguyên tắc về việc chia sẻ, khai triển và khai thác quặng mỏ Uranium ở Việt Nam".
Quả thật đây là một chỉ dấu cho thấy giả thuyết có nguồn nguyên liệu
phóng xạ ở cao nguyên Trung phần Việt Nam là có thật. Chính nhờ đó mới
có những giao kết thăm dò và khai thác giữa Việt Nam với các đối tác
khác. Và TC, đã nắm bắt cũng như biết nguồn nguyên liệu nầy, vì vậy cho
nên mới thực hiện dự án khai thác quặng mỏ bauxite để đánh lạc hướng thế
giới thêm một lần nữa.
Theo ước tính sơ khởi của công ty NWT thì cao nguyên có trữ lượng là 210
ngàn tấn quặng oxid uranium (U3O8) với nồng độ trung bình là 0,06%. Và
đó cũng là ước tính của Hội đồng Địa chất Thế giới. Và ở một tài liệu
khác cho biết hàm lượng quặng mỏ oxid uranium ở mỏ than Nông Sơn, Quảng
Ngãi là 8.000 tấn quặng và có cùng một nồng độ trung bình với oxid
uranium ở Cao nguyên.
Qua hai thông tin trên, một lần nữa có thể cho chúng ta có một kết luận
một cách xác tín là với mức độ quan trọng về nguồn nguyên liệu nầy khiến
cho nhiều quốc gia như Pháp, Nhật, và Hoa Kỳ đã biết trước nhưng không
công bố vì điều kiện an ninh của Việt Nam trong thời chiến lúc bấy giờ
không cho phép.
Ngày hôm nay, TC đã biết và thay vì đến Việt Nam để khai thác nguồn
nguyên liệu quý giá về phương diện quốc phòng nầy, họ đã đánh lận con
đen để nói tráo qua việc khai thác quặng mỏ Bauxite, vừa có lý do để xâm
nhập hàng chục ngàn công nhân hay tình báo, hoặc quân nhân nhằm mục
đích kiểm soát cao nguyên Trung phần Việt Nam và Biển Đông.
Với hàm lượng oxid uranium kể trên, có thể ly trích và khai thác được
hàng trăm Kg Uranium có nồng độc cao có thể ứng dụng vào trong kỹ nghệ
quốc phòng và quân sự.
Thêm nữa có hai chi tiết sau đây để củng cố giả thuyết về việc TC đang bí mật chuẩn bị việc khai thác quặng mỏ Uranium:
- Mỏ than Nông Sơn đã được VNCH khai thác từ năm 1961, và vẫn vận
hành từ đó đến 1975 hoàn toàn không có tai nạn nào xảy ra. Và, TC với tư
cách nào và với lý do gì đã đem trên 200 chuyên viên vào nơi đây từ năm
2008?
- Một phần cao nguyên Bolloven nằm trên địa phận Lào đã được TC thuê mướn trong vòng 50 năm?
Chính hai chỉ dấu sau này là chìa khóa để mở toang cánh cửa bí mật giữa
CSVN và TC trong việc khai thác quặng mỏ Bauxite ở Cao nguyên Trung phần
Việt Nam.
Việc khai thác nầy chỉ là Diện để che mắt thế giới, và Điểm chính là
việc tìm kiếm, khai thác, ly trích và tinh luyện chất phóng xạ Uranium
235 để làm tăng lợi khí "cường quốc" của Hán tộc.
Và đây mới là điểm then chốt của tham vọng quyền lực của TC với sự đồng thuận của đảng cộng sản Việt Nam.
4. Ảnh hưởng của việc khai thác quặng mỏ Uranium
Đứng về mặt môi trường, quy trình khai thác quặng mỏ Uranium tương đối
phát thải phế thải ít hơn và dễ bảo quản cũng như kiểm soát hơn việc
khai thác bauxite. Tuy hai công trình đều đưa đến sự hủy diệt thảm
thực vật ở miền Cao nguyên này, nhưng nếu đứng về hiệu quả kinh tế, phát
triển quốc gia, cũng như quốc phòng, việc khai thác Uranium chiếm nhiều
ưu thế hơn cả. Lý do là trong vòng tương lai, Việt Nam sẽ phát
triển những nhà máy phát điện nguyên tử tại Ninh Thuận, cho nên việc
khai thác Uranium 235 nầy có thể là nguồn cung cấp nguyên liệu cho nhà
máy.
Thêm một điểm cần lưu ý là, nếu Việt Nam chủ động và làm chủ được nguồn
nguyện liệu quan trọng và hiếm quý nầy, vị trí của Việt Nam trên thương
trường quốc tế sẽ được bảo đảm cũng như tư thế chính trị cũng sẽ được
nâng cao vì nguyên liệu nầy sẽ là một yếu tố quyết định trong các mặc cả
trong nhiều lãnh vực nhứt là quốc phòng đối với những quốc gia khác
trên thế giới.
5. Thay lời kết
Qua những nhận định vừa nêu trên, giả thuyết về việc khai thác quặng mỏ
Uranium ở Cao nguyên Trung phần và ở Nông Sơn có tính xác tín rất cao.
Và giả thuyết nầy lại là một lý giải cho sự hiện diện của những người
lính dưới dạng công nhân ở hai nơi này.
Theo báo Thanh Niên ngày 6/8/2009, ông Trần Xuân Hương, Bộ trưởng Bộ Môi
trường & Tài nguyên công bố ngày 4 tháng 8 là Việt Nam quyết định
thăm dò và khai thác quặng mỏ Uranium ở Nông Sơn, ước lượng có trữ lượng
8.000 tấn quặng oxid uranium U3O8. Việc khai thác này chia làm hai đợt
cho đến 2020. Đối với một số địa điểm khác, ông cũng có nêu tên tỉnh Lâm
Đồng nhưng không nói cụ thể như trường hợp Nông Sơn cũng như tên Đắk
Nông cũng không được nhắc tới. Phải chăng đây là hai vị trí cấm kỵ và
nhạy cảm vì còn nằm dưới chiêu bài khai thác quặng mỏ bauxite của TC?
Và ông cũng cho biết là đã ký Biên bản ghi nhớ (Memorendum of
Understanding) với Ấn Độ trong việc nghiên cứu và định hướng về công
nghệ áp dụng cho việc khai thác quặng mỏ Uranium trên.
Nếu suy nghĩ trên trở thành hiện thực, người Việt quốc gia ở quốc nội và
hải ngoại phải làm gì trước những diễn biến đang xảy ra trên quê hương?
Một điều không thể chối cãi được là tiến trình Hán hóa Việt Nam của TC
đã thể hiện rất rõ ràng. Đây là một tiến trình tiệm tiến giống như
trường hợp của Tân Cương và Tây Tạng.
Ngay sau khi chiếm đóng Trung Hoa lục địa, và nhất là lợi dụng tình
trạng còn lỏng lẻo của Hội Quốc Liên, tiền thân của Liên Hiệp Quốc thời
bấy giờ (1949), Mao Trạch Đông vội vàng chiếm đóng quốc gia Tây
Turquistan và đổi tên thành Tân Cương, cũng như chiếm Tây Tạng vào năm
1959. Tiếp theo sau đó, chính sách Hán hóa bắt đầu thực hiện bằng cách
cho người Hán nhập cư vào hai nơi nầy để rồi lần lần đồng hóa bằng những
cuộc hôn nhân dị chủng. Tập Cận Bình ngày nay vẫn tiếp tục chương trình
trên và kết quả hiện tại là dân Tây Tạng trở thành thiểu số trên chính
quê hương mình, và dân Tân Cương chỉ còn chiếm 42% trên tổng số cư dân
tại nơi đây.
Qua hai diễn biến lịch sử kể trên, Việt Nam chắc chắn sẽ nằm trong "tầm
bắn" của TC trong chính sách này trong một tương lai không xa.
Hẳn chúng ta còn nhớ, vào những tháng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa,
hai món hàng dầu hỏa và quặng mỏ Uranium ở Cao nguyên đã được chính
quyền thời bấy giờ mặc cả với nhiều quốc gia đối trọng khác nhau ngõ hầu
cứu vãn miền Nam, nhưng bị thất bại. Và ngày hôm nay, nguy cơ nguồn
nguyên liệu quốc phòng nầy sẽ lọt vào tay TC rất cao.
Một bản tin kinh tế rất nhỏ trên các trang báo Việt Nam ngày 25/06/2017
không làm nhiều người chú ý, nhưng đã nhanh chóng gây sửng sốt cho những
ai quan tâm về thời sự và chính trị ở Việt Nam. Nội dung của bản tin
cho biết khu kinh tế Formosa, Vũng Áng, Hà Tĩnh của Việt Nam đột ngột
gửi thư lên Trung ương Hà Nội và đòi trở thành đặc khu tự trị với nhiều
quyền hạn vượt ra ngoài khuôn khổ luật pháp bình thường. Tin tiết lộ cho
biết Ban lãnh đạo khu kinh tế Formosa vừa có văn bản gửi Phó Thủ tướng
CSVN Hoàng Trung Hải yêu cầu cho thiết lập đặc khu kinh tế tự trị. Theo
văn bản này, Tổng giám đốc công ty Hưng Nghiệp Formosa Dương Hồng Chí,
vốn là một người gốc Hoa, lý giải việc thiết lập đặc khu kinh tế nhằm
phục vụ cho quá trình xây dựng cảng nước sâu Sơn Dương và đầu tư các
ngành công nghiệp liên quan như gang thép, điện, nước… nói một cách
khác, yêu cầu này có nghĩa muốn tách vùng Vũng Áng, Hà Tĩnh, trở thành
như một vùng tự trị trong lòng Việt Nam (lấy trên internet).
Chính vì thế, một trong những việc làm cấp bách hôm nay là phải cảnh báo
cho thế giới biết rõ âm mưu của TC về việc khai thác quặng mỏ Uranium ở
Cao nguyên và Nông Sơn.
Ngày hôm nay, tuy muộn rồi nhưng thiết nghĩ, chúng ta vẫn phải tiếp tục
tranh đấu, nếu không, TC, một khi làm chủ được nguồn nguyên liệu nầy sẽ
mọc "thêm râu thêm cánh" và ngang nhiên tung hoành như đi vào chỗ không
người. Tinh thần Hán tộc cực đoan và chủ nghĩa bành trướng của TC càng
được đẩy mạnh thêm lên qua quyển Tân Biên Sử mới của TC mà biên giới gồm
thâu cả vùng Đông Nam Á, Miến Điện, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân,
Nam Bắc Hàn v.v…
Bằng bất cứ giá nào, người Việt khắp nơi sẽ không để nguồn nguyên liệu
nầy lọt vào tay TC. Nếu không, Việt Nam sẽ biến thành một vùng tranh
chấp quốc tế và thảm họa sẽ khó lường trong tương lai một khi đã có
tranh chấp.
- Việc liên kết với các quốc gia ASEAN trong giai đoạn nầy để tạo
hậu thuẫn trong các cuộc tranh chấp với TC là một trong những điều kiện
tối cần thiết trong lúc nầy.
- Cũng cần phải nói thêm là việc kết đoàn với Ấn Độ, một đối lực
ngang ngữa với TC cũng là việc nên làm. Ấn Độ cũng vừa có một quyết định
sáng suốt trước hiểm họa TC là chấm dứt hợp đồng xây dựng đường ống dẫn
dầu khí xuyên qua Ấn Độ, Miến Điện và Vân Nam (TQ). Đây là bước ngăn
chặn có hiệu quả nhất trước sự bành trướng của TC.
Sự kết đoàn giữa quốc nội và hải ngoại, giữa Việt Nam và quốc tế rất cần
thiết trong lúc nầy vì chính đảng CSVN, thái thú biết nói tiếng Việt
của TC đã bất lực một khi để sự việc kể trên xảy ra cho đất nước trong
lúc họ có khả ngăn chặn từ lúc đầu.
Lịch sử Việt Nam sẽ không quên ghi lại tội ác kể trên!
(*) Bài viết được trích và cập nhựt hóa bài viết trong sách “Từ
Bauxite đến Uranium: Tiến trình đô hộ Việt Nam của Trung Cộng”, xuất bản
năm 2009. Nếu cần, liên lạc envirovn@gmail.com