“Ngày
Nước Thế giới” hay “Ngày Nước sạch Thế giới” được tổ chức vào
ngày 22 tháng Ba hằng năm trong tất cả các quốc gia thành viên Liên hiệp quốc từ
năm 1993, theo Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hiệp quốc, nhằm kêu gọi toàn thế giới quan tâm đến tầm quan trọng của tài nguyên nước; cụ thể, không sử dụng nước một cách lãng phí
cũng như tránh làm ô nhiễm nguồn nước ngọt. Viện Nhân Quyền VN trân trọng giới thiệu bài Nước và Con Người của GS Thái Công Tụng.
Nước và con người
Thái Công Tụng
Abstract
This paper examines the nature, properties, place, significance, importance, and role of water in the life and culture of this planet
1.Tổng quan
Các nhà hiền triết Hi
Lạp cổ đại, từ Platon đến Socrate xem Nước là nguồn gốc của mọi nguồn gốc.Theo
Phật giáo thì vũ trụ do bốn cái lớn trong vũ trụ: đất, nước, gió,
lửa, còn gọi là Tứ Đại. Triết học Trung Hoa cho rằng nước là một trong năm
yếu tố gọi chung là Ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.
Nước vừa mềm mại, uyển chuyển
nhưng có sức mạnh phi thường vì các địa mạo ta thường gặp như thung lũng, đèo
cao, núi thẳm, châu thổ v.v. đều do nước bào mòn, chuyển vận, lắng tụ, bồi
tích. Sách Thánh Kinh có nói về trận hồng thủy .Thần thoại nước ta cũng
nói về Sơn Tinh, Thủy Tinh. Sử sách Việt nói về Lạc Long Quân .Theo giáo
sư Lê Hữu Mục, thì các từ Lạc phải đọc là Đác và chữ Đác với thời gian
trở thành Nác . Nác chính là từ cổ của chữ Nước ta nói ngày nay. Thực
vậy, nhiều vùng thôn quê ở Nghệ, Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị vẫn còn nói: uống nác (uống nước), khát
nác (khát nước) .Nhiều nhà văn hoá học Việt đều cho rằng nước là một đặc
trưng hình thái của tư tưởng Việt Nam hay nói tổng quát hơn, của văn hoá Việt
Nam
Nước liên quan đến nhiều chức năng trong cơ thể: sự
tiêu hoá, sự tuần
hoàn, sự hô hấp, sự thải
hồi. Các nhà khoa học dùng nước để tìm
ra các hằng số quan trọng về vật
lý nh ư:
-nước đông đặc ở 0 độ
-nước sôi khi nhiệt độ
là 100 độ C
-1
lít nước cân nặng 1 kgam
-tỷ trọng
của nước là 1 . Vật nào có tỷ trọng
lớn hơn 1 thì chìm và vật nào có tỷ trọng
nhỏ hơn 1 thì nổi . Nước có mặt ở
cả ba dạng vật lý : lỏng, đặc và hơi.
Với dân số bùng nổ kéo theo một
loạt nhu cầu về nước sinh hoạt, nước dùng trong kỹ nghệ v.v. nên tài nguyên
nước trở thành một tài nguyên qúy giá của nhân loại.
2 .Nước trong văn học Việt
-Trong văn học
dân gian, nhiều tục ngữ liên quan đến nước :
nước chảy đá mòn, nói lên
sự kiên nhẫn; nước đổ lá môn ngụ ý nói không ai nghe;
Sống về gạo, bạo về nước, cho thấy hai
nhu cầu thiết yếu của con người để duy trì sự sống. Thuyết nhân quả
của nhà Phật cũng được diễn
tả trong câu: Đời cha ăn mặn, đời con
khát nước.
Trong công
việc đồng áng thì nước rất cần thiết nên ta thường nghe ca dao:
Lạy
Trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cày, Lấy rơm đun bếp.
Công việc trồng
lúa đòi hỏi phải có nước:
Trời
đông, nước đã phơi bờ
Em về
nhổ mạ, anh bừa ruộng chiêm
Công cha
nghĩa mẹ cũng dùng nước để so sánh:
Công
cha như núi Thái Sơn
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Lời mẹ ru con cũng có nhiều câu có chữ nước:
Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước
rửa bành ông voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi coi bành vàng
. -Trong văn chương bác học, nói về sắc đẹp của phụ nữ cũng
dùng biểu tượng nước như nghiêng nước nghiêng thành hoặc mây
thua nước tóc, tuyết nhường màu da .
Nỗi nhớ nhà , nhớ
nước được diễn tả trong câu :
Buồn
trông ngọn nước mới sa
Mây
trôi man mác biết là về đâu (Kiều)
Thề nguyền
cũng dùng nước:
Còn
non, còn nước, còn dài
Còn
về còn nhớ đến người hôm nay (Kiều)
Làm gì cũng
phải có kế hoạch, không đợi ‘nước đến chân mới nhảy’:
Lánh
xa trước liệu tìm đường
Ngồi
chờ nước đến nên dường còn quê (Kiều)
Nguyễn Khuyến
tả cảnh ao làng vào mùa thu :
Ao
thu lạnh lẽo nước trong veo
Một
chiếc thuyên câu bé tỉ teo
Nước trong,
không ô nhiễm trong câu thơ của Chinh Phụ ngâm:
Ngoài
đầu cầu nước trong như lọc
Đường
bên cầu cỏ mọc còn non
Nhưng vượt
lên ca dao, tục ngữ, nước là một tài nguyên quan trọng vì nước
là một chất không thể thiếu được trong
sự sống của loài người, từ
động vật đến
thực vật; là chất đảm bảo sự cân đối của những vận động tuần hoàn không những của
trái đất vĩ mô mà còn cả những chuyển hóa vi mô trong từng tế bào là đơn vị nhỏ
nhất của động vật và thực vật.
3. Nước trong đời sống.
Nước
là chất cơ bản, cái nôi của sự sống. Nước quan trọng trong đời sống thực vật. Tục ngữ ta có câu: Nhất nước,
nhì phân, tam cần, tứ giống chứng tỏ tầm quan trọng của nước. Nước hoà tan các dưỡng liệu trong đất thì rễ
cây mới hút được để chuyển tải lên các bộ phận hoa lá trong cây . Không có nước
thì không có sự quang hợp tạo ra các hydrat cacbon . Để làm ra 1 kg chất khô,
cây bắp cần 350 lít nước, khoai tây cần 575 lít, lúa cần trên 2000 lít v.v.Nước cũng quan trọng
trong đời sống động vật. Cũng như trong thực vật, nước giúp cho sự luân lưu, cho sự trao đổi chất: 60 đến
70% trong cơ thể con người là nước nên khát nước dễ chết hơn khát ăn. Nước cũng
cần cho các hoạt động kỹ nghệ: sản xuất thép, sản xuất chip điện tử, sản xuất tơ nhân tạo cũng cần
nhiều nước và dĩ nhiên sản xuất bia, nước Coca, nước ngọt là từ nước . Nước cũng ảnh
hưởng đến khí hậu và là nguyên nhân tạo ra thời tiết như mưa, tuyết, bão. Năng
lượng mặt trời sưởi ấm không đồng đều các đại dương đã tạo nên các dòng hải lưu
như dòng Gulf Stream vận chuyển nước ấm từ vùng nóng đến Bắc Đại
Tây Dương làm khí hậu các xứ Bắc Âu ấm áp hơn .
4. Nước
trên quả địa cầu .
Trên hành tinh Trái Đất này, mặt trời và nước giúp
duy trì cuộc sống. Hơn 70%
diện tích của Trái Đất được bao phủ bởi nước (đại dương, biển kín). Chính vì vậy mà
trái đất nhiều nước mặn (97%) hơn nước ngọt. Nhưng
phần lớn nước ngọt lại nằm ngoài tầm tay của con người vì nằm trong các băng hà
ở miền cực địa cầu (2.7%) hoặc dưới tầng đất ngầm và ẩm độ trong đất, còn lại
rất ít là nước ngọt chứa trong sông,
suối, hồ, ao là thực sự sử dụng được cho con người . Nói khác đi, nước ngọt là
một tài nguyên có giới hạn. Ngoài ra, nước lại không được phân bố đồng đều trên
Trái đất: vùng Amazonie nhận được 20% lượng mưa trên toàn thế giới chỉ cho 10
triệu người, vùng Bắc Phi và Trung Đông với 400 triệu người lại chỉ hưởng được
1,5%.
Cũng từng đó nước từ hàng ngàn năm trước,
nhưng cái khác là ngày nay, dân đông hơn, cần nhiều nước hơn để sử dụng vào nhiều mục đích hơn:
nước dùng trong sinh hoạt, trong kỷ nghệ
(thủy điện, kỷ nghệ các loại), trong nông nghiệp để sản xuất lương thực v.v. Theo Hội đồng nước toàn cầu, tiêu thụ nước trong nông nghiệp là
66%, công nghiệp (20%), các hộ gia đình (10%) và khoảng 4% bốc hơi từ các
hồ dự trữ nước nhân tạo. Tế bào sống hầu như 3/4 là nước và không nước, con người sẽ mau
chết hơn là không ăn. Như vậy, nước là nguồn tài nguyên vô giá của con người. Những xứ có tài nguyên nước dồi dào
phải kể là những xứ như Canada, Nga, Mỹ, Bresil, Indonesia, Đông Dương còn các
xứ ít có tài nguyên nước nằm các vùng sa mạc như Úc châu hoặc các xứ Sahel. Một
vài vùng trên thế giới thiếu nước vừa phải là các vùng quanh bờ Địa Trung Hải
như Ý, Hi Lạp, Bắc Phi, Ai Cập.
5. Chu kỳ nước.
Trong bài thơ Thề non nước
của Tản Đà, có câu: Nước trôi ra biển lại mưa về nguồn. Câu thơ này vô
hình chung đã nói về chu kỳ nước trong vũ trụ : nước từ sông, hồ, biển bốc
hơi lên cao, gặp lạnh trên cao sẽ ngưng đọng lại và rơi xuống đất.
Khi gặp mặt đất thì nước một phần thấm vào lòng đất qua các khe đá, lổ
hổng của đất và tạo thành nước ngầm, một phần chảy tràn để chảy vào sông
suối rồi trở lại ra biển .
Như vậy, nước cứ luân hồi mãi mãi, từ kiếp này sang kiếp khác, vô thủy vô chung từ lúc Trái Đất thành hình cách nay hàng ngàn triệu năm và nhờ nước mới có đời sống thực vật, rồi mới có đời sống động vật.
6. Tài nguyên nước .
Có thể phân loại tài nguyên nước thành 4 loại sau đây:
61.nước mưa .
Có những vùng mưa nhiều, đặc biệt các vùng có khí
hậu xích đới. Sau đây liệt kê vài xứ có lượng mưa nhiều nhất thế giới :
Colombia (Trung Mỹ), Liberia (Phi châu), Myanmar tức Miến Điện (Á châu), Papua
New Guinea, Bangladesh (Á châu) có lượng mưa trung bình hàng năm trên dưới 4000
mm
Nhưng cũng có
những xứ ít mưa như Iran, Afghanistan, các xứ Arập ở Trung Đông. Lục địa Úc
châu khô hạn chỉ 800 mm mưa mỗi năm.
Vùng Đông Nam Á nói chung và Việt Nam
nói riêng , vì nằm vùng khí hậu gió mùa
nên lượng mưa trung bình hàng năm khá cao: 1800 mm . Tuy nhiên cũng có những
vùng khuất gió thì mưa ít hơn như đồng bằng 3 Phan: Phan Rang, Phan Rí, Phan
Thiết . Ngoài ra, nước mưa không rãi đều trong năm vì chỉ tập trung vào các
tháng mưa còn mùa kia thì nhiều nơi không có tí mưa, thêm vào gió Lào khô ráo,
khiến nhiều vùng thiếu nước.
62 .nước mặt. Đây cũng là tài nguyên nước mặt có trên các sông, suối, hồ ao, kinh rạch ..Nước sông suôi hồ ao được sử dụng trong nhiều đối tượng khác nhau như phục vụ sinh hoạt (nấu cơm, tắm rửa, giặt ), phục vụ nông nghiệp (tưới cây, nuôi cá, chăn nuôi), phục vụ kỷ nghệ (các công nghệ chế biến, sản xuất giấy, thuộc da, phân bón..)
Nước ‘cứng’ (hard water) là nước chứa nhiều ion Calci và magnesi. Khi đun nước loại này thường bị đóng váng vôi, tức là một kết tủa cacbonat calci . Nước ‘mềm’ là nước không có nhiều chất Calci và magnesi.
Nước cứng cũng không dùng để pha chế thuốc vì có thể gây kết tủa làm thay
đổi thành phần của thuốc. Khi dùng nước cứng nấu thì rau, thịt khó chín; làm
mất vị của nước chè. Giặt bằng nước cứng tốn xà phòng do Ca2+ làm
kết tủa gốc axit trong xà phòng và làm xà phòng không lên bọt. Nhiều công nghệ
hoá học đòi hỏi nước có độ cứng nhỏ do
đó nếu n ước chứa nhiều Calci và magnesi thì phải làm mềm nước cứng bằng cách
cho kết tủa các chất Ca và Mg với sođa (Co3Na2) hoặc tách chúng bằng nhựa trao
đổi ion (ion exchange resin). Trong nhựa trao đổi ion, những hạt mang điện tích
trái dấu sẽ hút nhau như các cation sẽ hút các ion âm tức anion và ngược lại.
63
nước ngầm. Nước
từ các nguồn nước mưa, sông, rạch, ao, hồ.. một phần thấm vào đất, nhưng không
thể ngấm qua tầng đá dưới sâu nên nước tập trung nhiều ở tầng nước dưới đất .
Đào giếng chính là để khai thác nước dưới đất dùng trong sinh hoạt. Tại đồng bằng
sông Hồng cũng như đồng bằng sông Cửu Long, nhà nào cũng đào giếng để có nư ớc
sinh hoạt . Ngoài ra, nông dân cũng đào giếng, khoan giếng sâu để lấy nước ngọt
tưới rau màu, pha loãng với nước mặn để nuôi tôm v.v. Chính vì vậy mà hiện nay
mực nước ngầm hạ xuống quá sâu kéo theo một số hậu quả: mặt đất sụt lún xuống,
nước mặn xâm nhập vào túi nước ngầm, chưa kể nguy cơ nhiễm độc asen (thạch
tín), ảnh hưởng lâu dài đến sức khoẻ người dân. Ngoài ra, phẩm chất nước ngầm
cũng bị ô nhiễm do các chất ô nhiễm trên mặt đất trôi chảy xuống: nitrat,
phenol, thuốc trừ sâu, phân hoá học
64 nước mặn. Nước mặn
ngoài biển có hàm lượng muối trung bình là 35gram cho mỗi kg nước biển và gồm 6
chất: sodium (Na+), chlorua (Cl-), sunfat (SO4
2-), magnesium (Mg 2+), calcium (Ca2+) và
potat (K+). pH nước biển biến thiên từ 7.5 đến 8.4: nước biển có môi
trường hơi kiềm. Tuy
hàm lượng muối trung bình là 3.5% ( 35 gram/lit ), nhưng các biển kín thì nồng
độ muối cao hơn:
Biển Đỏ, còn gọi là Hồng Hải thì vì vùng
ít mưa, bốc hơi cao, ít sông ngòi chảy vào thì nồng độ muối cao hơn: 40g/l .
Biển Chết ở giữa Jordanie và Do Thái còn
có độ mặn rất cao, đến 330g/lit vì là
biển kín. Gọi là biển nhưng thực ra đó chỉ là một cái hồ lớn nằm ở vùng sa mạc
phía Đông Nam Israel. Gọi là Biển Chết vì nước ở hồ này rất mặn, đến mức không
một sinh vật nào có thể sống nổi.. Hồ này rộng 1.040 km2, mặt hồ
thấp hơn 400 mét so với mặt nước biển nên là điểm thấp nhất của bề mặt trái
đất.
Ngoài ra, ở các cửa sông, nơi
có sự hoà lẫn giữa nước ngọt và nước mặn, còn gọi là vùng giáp nước thì
nồng độ muối giảm nhiều : ta gọi đó là nước
lợ. Nước lợ chứa từ 1 đ ến 10 gram muối trong mỗi lít và các loại muối
trong nước lợ có những chất như CaSO4, MgCO3, NaCl tùy
các vùng đất nước chảy qua
7.Vai
trò của nước. Nước có 4 vai trò sau
đây:
-cung
cấp: nước
cung cấp thực phẩm cho nhân loại. Nước ngọt, nước lợ, nước mặn, đều có thuỷ
sản, hải sản rất phong phú và đa dạng như tôm, cua, cá, ếch, ba ba, rùa .Nước
giúp hoà tan các dưỡng liệu trong đất để thực vật lớn nhỏ có thể nhờ đó mà sinh
trưởng.
-điều hoà khí hậu: các dòng hải lưu ngoài biển ảnh
hưởng đến điều hoà khí hậu: ví dụ dòng Gulf Stream đem hơi ấm cho các vùng miền
Bắc Âu Châu
-văn hoá (tâm linh, giải trí ..) Cần lưu ý là nước, ngoài khía cạnh giá trị vật chất, phải được xem có giá trị tinh thần vì hồ ao, sông suối có tác động thẩm mỹ, thông thoáng, giúp con người bớt các căng thẳng của cuộc sống xô bồ ngày nay. Thực vậy:
-văn hoá (tâm linh, giải trí ..) Cần lưu ý là nước, ngoài khía cạnh giá trị vật chất, phải được xem có giá trị tinh thần vì hồ ao, sông suối có tác động thẩm mỹ, thông thoáng, giúp con người bớt các căng thẳng của cuộc sống xô bồ ngày nay. Thực vậy:
.tình
yêu nẩy nở bên cạnh dòng suối:
Dưới
cầu nưóc chảy trong veo /Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha (Kiều)
.cuộc
biệt ly cũng bên cạnh dòng sông:
Đưa
người ta không đưa sang sông/ Sao có tiếng sóng ở trong lòng? (Thâm Tâm)
Đò
chiều sông lạ tiễn đưa nhau/Gió nấc từng cơn, sóng vật đầu/Hai ngả lênh đênh
trời ngụt khói/Người đi, ta biết trở về đâu ? (Vũ Hoàng Chương)
.nỗi
nhớ khi nhìn con nước thủy triều lên
xuống:
Lòng
quê dờn dợn vời con nưóc/Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà (Huy Cận)
.nhớ chồng đi ngoài biên ải : Nước
có chảy mà phiền khôn rửa/ Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây (Chinh Phụ Ngâm )
.
thư giãn tĩnh mịch nơi chốn non xanh, nước biếc:
Côn Sơn có suối nước trongTa nghe suối chảy như cung đàn cầm
Côn Sơn có đá tần vần
Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi
(Nguyễn
Trãi trong Côn Sơn ca -Bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật)
Sông ngòi luôn
luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ, văn, nhạc. Những bài thơ Đường của Lý
Bạch, của Thôi Hiệu, bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, bản nhạc Dòng Sông Xanh đều
lấy sông làm nguồn cảm hứng.
Riêng văn học
dân gian cũng có nhiều điệu hò trên sông nước. Vì sự vận chuyển hàng hoá bằng
ghe thuyền đòi hỏi chèo chống khó nhọc nên để bớt vất vả khi chèo đò, nhiều
loại hò ra đời với nội dung rất phong phú,
phản ánh phong cảnh thiên nhiên, mối tình trai gái v.v. Cùng với mái
chèo cất nhịp, những lời ca giàu tính chất trữ tình giúp cả khách lẫn trai chèo
quên đi những nhọc nhằn, nỗi lạnh lẽo tịch mịch của đêm truờng. Văn học dân
gian được phong phú thêm với những hò
Huế, hò Quảng, hò sông Mã v.v.
Dòng sông ở Huế
với nhiều điệu hò: mái nhì, mái đẩy, dô
hậy, đẩy nôốc là những thể hò dân gian trên sông nước.
Tiếng hò của mối
tình ngang trái:
Nước chảy xuôi,
con cá buôi lội ngược
Nước chảy
ngược, con cá vượt lội ngang
Thuyền em xuống
bến Thuận An
Thuyền anh lại
trẩy lên ngàn anh ơi !
Câu hò mái nhì gợi nhiều rung cảm do tình yêu đôi lứa:
Nước đầu cầu,
khúc sâu khúc cạn
Chèo qua Ngọc
Trản, đến mạn Kim Long
Sương sa gió
thổi lạnh lùng
Sóng xao trăng
lặn, gợi lòng nhớ thương
Trong mọi tôn
giáo, từ Ấn độ giáo, Phật giáo đến Công giáo, Hồi giáo, đều dùng nước làm biểu
tượng . Vì nước là căn nguyên đầu tiên của vũ trụ, nên trong mọi tôn giáo luôn
luôn có nước. Ấn độ giáo thì nước sông Hằng ở đó trong nhiều lễ hội hàng chục
ngàn người nhảy xuống tắm để gột rửa mọi phiền não; ở Công giáo thì nước dùng trong bí tích rửa tội; ở Hồi giáo
thì phải rửa tay, rửa ngón chân trước khi lạy về hưóng thánh địa La Mecque; ở
Phật giáo thì trong các
lễ vật để dâng lên cúng vái ông bà trên
bàn thờ không thể thiếu chén nước .Nước cũng sử dụng
trong lễ tắm Phật các ngày Phật đản. Một bộ kinh như kinh Thủy Sám có nói về
nước chữa bệnh .
Nhìn
những cảnh sông nước, bát ngát của đất trời, con người chợt nhận ra sự cần thiết
của im lặng, của tĩnh tại, nó giúp nhen
nhúm ngọn lửa tâm lý và năng lượng này,
tức tâm năng giúp chuyển hoá thành năng lượng vật lý ; nói khác đi tâm năng
và động năng/thể năng có tác động
thuận nghịch cũng như giữa đức tin và lý trí bổ túc cho nhau. Chúng ta cảm thấy sự buông xả cho dòng nước cuốn trôi đi mọi phiền não thật cần
thiết.
Nước tượng trưng cho sự vô thường: dòng nước thay đôi liên tục vì
giọt nước này tiếp nối giọt nước kia, tạo thành dòng chảy. Tâm của ta cũng vô
thường như dòng sông nghĩa là chuyển động tiếp nối, khi vui khi buồn, khi nghĩ
đến quá khứ, lúc nghĩ đến tương lai . Sự lưu chuyển của tâm ta như nước chảy
không ngừng . Khổng Tử thấy dòng nước lững lờ trôi cùng năm tháng: thị
giả như tư phù, bất xả trú dạ ( Luận -ngữ, IX, 16 ): cứ chảy hoài như vậy,
đêm ngày không bao giờ ngừng.
Nước tượng trưng cho sự
vô trụ ; nó không vướng mắc mà cứ lững lờ chảy, biết buông xả, không
chấp trách
Nước tượng trưng cho sự
vô ngã, vì nó khiêm tốn, nó nhận mọi ô nhiễm.
-yễm trợ : nước giúp cho các
hoạt động yểm trợ du lịch cũng
như y tế. Nói về vai trò của nước
trong các hoạt động du lịch, ta có thể kể du lịch biển, du lịch sông ngòi. Nói
về vai trò yễm trợ trong các hoạt động y tế, có thể nói về các suối nước nóng mà xứ nào cũng có . Riêng
ở Việt Nam, tại Khánh Hoà có
nhiều suối nóng có nhiều chất khoáng, giúp trị bệnh . Ngoài suối
nước nóng còn có nước suối lấy ở các
vùng nhiều chất khoáng, cho vào chai để uống như nước khoáng Vĩnh Hảo là
nước khoáng duy nhất của Việt Nam có hàm lượng Bicarbonat (HCO3)
cao. Ngoài ra, còn có một số nguyên tố vi lượng có ích khác, có tác dụng bồi bổ
cơ thể rất tốt, giúp tiêu hóa và lợi tiểu, làm đẹp làn da và hỗ trợ trị bệnh
đau dạ dày.
Nước tạo ra năng lượng thuỷ điện, giúp
cho các hoạt động kỹ nghệ (đồ uống, bột giấy,
bauxit, ), chuyển vận (ghe, đò,
tàu thuyền). Nước giúp cho sự tạo thành đất. Thực vậy, nước chuyên chở các trầm
tích từ nhiều lưu vực để bồi đắp phù sa, nước bào mòn các loại đá làm đá bể rời
ra nhanh chóng, giúp cho sự phong hoá hoá học dễ dàng hơn .
8. Ô nhiễm nước . Nhiều nguồn nước bị ô nhiễm do nước thải từ các ngành kỹ nghệ khác nhau cũng như nước thải sinh
hoạt không được xử lý đổ thẳng xuống sông nên nhiều loại cá tôm..trên sông ngòi chết dần.
Sau đây là các
tiêu chuẩn để đánh giá nguồn nước bị ô nhiễm bởi các chất hữu cơ:
-BOD
5 tức biological oxygen demand,-nhu cầu ôxy sinh học-là lượng ôxy được
sử dụng cho hoạt động sống của vi sinh vật để phân hủy hết các chất hữu cơ
không bền vững trong 1 lít nước (mg O2/ l) trong 5 ngày; người ta lấy thời gian
5 ngày để xác định nhu cầu oxy sinh học và gọi là BOD5 vì thông thường sau thời
gian 5 ngày ở 20o thì phần lớn các chất hữu cơ dễ phân hủy sẽ bị
phân hủy. Trong nước càng ô nhiễm nhiều (lượng chất hữu cơ nhiều) thì lượng
BOD5 càng cao. Thông thường thì nước dùng cho sinh hoạt phải có BOD5 nhỏ hơn 4
mg/ l; nước dùng cho thủy sản thì BOD5 phải nhỏ hơn 10 mg/ l. Nếu BOD5 lớn hơn
10 mg/ l thì xem như nước bị ô nhiễm hữu cơ rõ rệt.
-COD,
tức chemical oxygen demand,-nhu cầu ôxy hoá học-, là lượng oxy cần thiết
để phân hủy hết các chất hữu cơ có trong nước theo con đường hoá học. Nồng độ
COD cho phép đối với nguồn nước mặt là COD lớn hơn 10 mg/l
Khi BOD
và COD cao, điều đó có nghĩa là nồng độ oxy hoà tan trong nước bị giảm, hậu qủa
là tôm cá trong ao, hồ sẽ chậm phát triển hoặc chết. Ngoài ra, trong các điều
kiện kị khí, yếm khí, các chất hữu cơ phân hủy sinh ra mùi hôi thối; thực vậy
mùi bùn hôi tanh ( hoa sen 'gần bùn
mà chẳng hôi tanh mùi bùn') là do sự phân hủy các chất hữu cơ.
-DO,
tức dissolved oxygen,-nồng dộ oxy hoà tan- là lượng oxy tự do ở dạng hoà
tan trong nước. DO trong nưóc uống không
được nhỏ hơn 6 mg/l. Lượng oxy trong nuớc là yếu tố quan trọng của nước để tự
làm sạch nhờ hoạt động các vi sinh vật hiếu khí . Khi BOD và COD qúa cao sẽ làm
giảm DO và nếu DO giảm sẽ tạo điều kiện
cho các vi sinh vật yếm khí họat động, gây ra nhiều H2S tạo mùi hôi thối
cho các vùng bị ô nhiễm.
9.
Nước và phát triển bền vững . Nước đóng góp rất lớn vào mọi khía cạnh của nền kinh tế, đặc biệt là nước
ngọt vì từ nông nghiệp đến kỹ nghệ đều cần loại nước này: tưới cây, chế biến
trong kỹ nghệ thực phẩm, sản xuất trong hầm mỏ, kỹ nghệ giấy . Thiếu nước sẽ
làm tê liệt các ngành hoạt động trên . Sự gia tăng dân số, sự phát triển kỹ nghệ
sẽ ngày càng tác động mạnh đến môi trường nước (dân số tăng lên một lần, nhu cầu nước
tăng lên ba lần), do đó tài nguyên nước phải cung ứng nhiều hơn cho dân số tăng không những về lượng
mà còn về phẩm. Muốn thế, phải tăng sự tái chế biến nước (water
reycling) và tiết kiệm tài nguyên này,
nghĩa là không xài phung phí nước. Nước tái chế biến là nước thải trong các ống
cống nhưng đã được xử lý vứt bỏ các chất
cứng và vài chất dơ để dùng lại trong tưới cây, tưới vườn, tưới sân golf, xe chữa
lửa v.v. Tiết kiệm nước
có thể là theo tuần tự: rửa mặt- giặt giũ- rửa chân tay, cuối cùng mới dùng cho
nhà vệ sinh. Từ đó lượng nước
sử dụng đã giảm một nửa. Tiết kiệm nước
tưới trong nông nghiệp như sử dụng nước nhỏ giọt (drip irrigation), tưới đúng
chỗ, đúng kỳ, như tráng xi măng trên các mương dẫn nước, như vậy vừa bớt hư hao
nước, vừa bớt cỏ dại ven mương Một công nghệ tái chế biến nước càng ngày càng ứng
dụng (như ở thành phố Luân Đôn và Singapour ) là thẩm thấu ngược
(reverse osmosis). Thẩm thấu là một hiện tượng tự nhiên: nước bao giờ cũng chuyển
dịch từ nơi có nồng độ muối khoáng thấp đến nơi có nồng độ cao hơn
và quá trình diễn ra đến khi nồng độ muối khoáng từ 2 nơi này cân bằng. Trong thẩm
thấu ngược, người ta phải dùng một áp lực đủ để đẩy ngược nước từ nơi có
hàm lượng muối cao ‘thấm’ qua một loại màng đặc biệt để đến nơi có ít muối
khoáng hơn.
Ngoài
ra, bảo vệ tài nguyên nước cũng bao hàm
phải chú trọng các vùng núi non hiểm trở vì chính các vùng này là nguồn
phát sinh ra nước của dòng sông: đó là những tháp nước đưa nước về miền
hạ lưu . Bảo vệ như không phá rừng đầu nguồn mà trái lại lo làm giàu thêm như
tổ chức du lịch sinh thái, bảo tồn đất đai chống xói lở, giúp phát triển kinh
tế các bộ tộc sinh sống . Cũng cần lưu ý là xử lý ô nhiễm
phải làm trên toàn lưu vực một dòng sông vì nếu chỉ thực hiện chống ô
nhiễm nước thải các nhà máy ở hạ nguồn mà trên thượng nguồn, nước ô nhiễm vẫn
chảy về thì xem như vô ích.
Để tóm lược, nước là một tài nguyên con người
phải trân quý, không để các dòng sông từ từ chết mòn, chết dần với các ô nhiễm
vì ô nhiễm nước sẽ gây tác hại đến tuổi thọ loài người. Ngoài an ninh lương
thực, ta còn phải chú ý đến an ninh nguồn nước sinh hoạt, vì về lâu
về dài, dân số đông, nhu cầu nước nhiều, nếu không kiểm soát được ô nhiễm nước
thì sẽ gây gánh nặng y tế như ung thư, dịch tả v.v.
10 . Tuyên ngôn về nước
Như trên đã viết, nước ngọt đóng nhiều vai trò cực kỳ quan trọng
trong sinh hoạt, trong an ninh lương thực, trong sản xuất kinh tế . Tuy nhiên
nhiều dấu hiệu cho thấy nước ngọt càng ngày càng hiếm có thể vì nhiều nguyên
nhân: dân só tăng, thất thoát nước trong đường chuyển vận, ô nhiễm nước, hạn
hán và sa mạc hoá, nước mặn xâm nhập, phá rừng, nước ngầm tụt sâu do khai thác nước giếng quá mức .Thực
vậy, vài con số cho
thấy vài vấn nạn của tài nguyên nước trên thế giới ngày nay:
* Hơn
1/6
dân số toàn cầu thiếu nước sinh hoạt. Phụ nữ nhất là ở Châu Phi phải đội các bình nước đi bộ hàng cây số lấy nước
nên không thể tham gia vào công việc nông nghiệp, kéo thêm nạn nghèo đói .
* 2,5 tỉ
người, gồm gần 1 tỉ trẻ em, sống mà không có những điều kiện vệ sinh cơ bản, cứ
20 giây thì có một trẻ chết vì vệ sinh kém, nhất là do bệnh dịch tả.
* Ở
các nước đang phát triển, 70%
chất thải công nghiệp đổ thẳng vào nguồn nước không qua xử lý.
* Mỗi
ngày, một người cần 2-4
lít nước để uống nhưng cần
2.000-5.000 lít nước để sản xuất ra thực phẩm hằng ngày cho một người.
* Vào
năm 2025, 1,8 tỉ người
sẽ
sống
ở
các quốc
gia và các khu vực
hoàn toàn thiếu
nước,
2/3 dân số
thế
giới
sẽ
rơi vào tình trạng
căng thẳng
vì thiếu
nước.
* Tiêu thụ nước không đồng đều tùy theo mức phát triển: 3000
m3/dân/năm ở các xứ Âu Ch âu; 10 000m3/dân/năm ở Hoa Kỳ; 200m3/dân/năm ở các xứ
đang mở mang như Ethiopie, Angola
Riccardo
Petrella, một nhà xã hội học người Ý cùng với một
số thức giả khác thường được nhiều người gọi là nhóm Lisbonne (Portugal) đã ra
một Tuyên Ngôn về Nước (water manifesto) trong đó minh xác nước không
phải là món hàng trao đổi được mà là một di sản chung của nhân loại.
Tuyên ngôn cho rằng quyền tiếp cận với nước ngọt và sạch là một quyền cơ bản
của con người . Không phải người
giàu có tiền mà có thể hưởng thụ tài nguyên nước nhiều hơn người nghèo. Nông
nghiệp, kỹ nghệ, sinh hoạt hàng ngày đều dựa vào nước . Tuyên ngôn minh xác
nước là một chất không thể thay thế được nên mọi người và mỗi người
đều có quyền cơ bản có nước uống cả phẩm lẫn lượng cần thiết cho cuộc
sống và mọi công dân trên thế giới đều
có nghĩa vụ hợp tác trong quản lý tài nguyên nước, tôn trọng quyền các
thế hệ tiếp nối giữ gìn di sản chung.
11. Vài đại lượng cần biết trong thủy lợi
Tài nguyên nước bao gồm cả nước mặt do mưa rơi
xuống sông, suối, ao hồ và nước ngầm.
Nước ngầm cũng phụ thuộc vào lượng nước mưa rơi và tính chất thấm nước
của đất đá .
Thủy lợi là khoa học tổng hợp nhằm đánh giá, khai thác
sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên nước và bao gồm đánh giá và quy hoạch nguồn
nước; khảo sát và thiết kế, xây dựng công trình; quản lý lưu vực; chỉnh trị
sông, bờ biển.
Thủy văn (hydrologie ) là lĩnh vực nghiên cứu khoa học
về nước thông qua quan trắc, phân tích và công thức hoá . Cũng là khoa học ứng
dụng nhằm điều khiển và sử dụng nước. Chế độ thủy văn dao động theo mùa về mực nước, về dòng chảy,
về thành phần và nồng độ các chất hoà tan, sự thay đổi lòng sông.
Bốc thoát hơi nước là lượng nước bốc hơi từ mặt đất và thoát hơi
từ câỵ Do giá trị thực tế của lượng hơi nước bốc ra từ đất và từ cây rất khác
nhau, tùy theo tính chất đất, hàm lượng nước, thảm cây che phủ đất nên các nhà
khoa học đề nghị một lượng bốc thoát hơi nước tiềm tàng (évapotranspiration
potentielle) để dễ so sánh. Bốc thoát hơi nước tiềm tàng là lượng nước tối đa
thoát ra từ một thảm thực vật thấp và
dày đặc đồng đều không bị hạn chế và bốc hơi từ đất lên, khi lượng nước cung
cấp hoàn toàn bảo đảm trong những điều kiện khí hậu thổ nhưỡng nhất định.
Lưu vực sông (bassin versant; watershed) là vùng lãnh thổ mà sông nhận được nước nuôi
dưỡng. Có vài sông lưu vực lớn ở Viet Nam như sông Mekong, sông Hồng v.v. Trong
thủy lợi, diện tích lưu vực sông được tính từ nguồn đến vị trí công trình tính
toán.. Ví dụ: sông Đà có diện tích lưu vực là 52 900 km2, nhưng sông Đà ở Hoà
Bình thì lưu vực là 51 800 km2.
Đoạt giang
(river piracy). Đầu nguồn một dòng sông có thể do
xói mòn lùi ngược và đoạt nước thượng
nguồn của một dòng sông thuộc lưu vực khác. Một vài sông miền Trung đã do xói
mòn vào đường phân nước nên đã ăn vào phần thượng nguồn dòng sông lưu vực bên
Lào .
Lưu lượng dòng sông (débit )
Lưu lượng nước
là lượng nước chảy qua một mặt cắt ngang của lòng dẫn hoặc ống dẫn trong một
đơn vị thời gian một giây. Đơn vị tính thường là m3/sec hay lit/sec.
Lưu lượng biến
thiên theo thời gian:
Mùa lủ muộn dần
từ Thanh Hoá đến Phan Thiết.
Mùa lũ ở Sông
Chu : tháng 6- 10; sông Cả: tháng 8 -11; sông Gianh : tháng 9- 11. Từ Thừa
Thiên đến Khánh Hoà: từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau. Từ Phan Rang đến Hàm Tân
(Bình Tuy/Bình Thuận), mùa lũ xuất hiện tháng 7- 12
Lưu lượng lớn nhất của con lũ phụ thuộc chủ yếu vào
cường độ, thời gian mưa và đặc tính lưu vực.
Mùa cạn là lúc
lưu lượng dòng chảy thấp, giảm đến đáng kể. Nhiều dòng sông nhỏ có thể lội qua
được. Sông Chu có mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 5; sông Cả từ tháng 12 đến
tháng 7; sông Gianh từ tháng 12 đến tháng 8. Từ Huế vào, mùa cạn từ tháng 2 đến
tháng 8.
Nhiều tỉnh miền
bắc Trung Việt như Thanh, Nghệ, Tỉnh, Bình, Trị bị thêm gió Lào nóng thổi từng
cơn ác liệt vì hiện tượng foehn , sự bốc thoát hơi của đất và của cây rất mạnh;
có khi hạn hán kéo dài không trồng hoa màu được ; nhiều hồ thủy điện bị khô
nước.
Mật độ lưới
sông là tỉ số giữa tổng số độ dài của tất cả sông
suối trong hệ thống sông trên diện tích lưu vực. Trong khi miền Châu thổ sông
Hồng và sông Cửu Long, kinh rạch sông ngòi chằng chịt, mật độ lưới sông rất dày
(2 -4 km/km2) thì miền Trung, mật độ lưới sông thấp hơn (1.5 - 2 km/km2). Riêng
các vùng có đá vôi như Phong Nha, Kẻ
Bàng ở Quảng Bình thì mật độ rất thưa (0.3- 0.5 km /km2) vì đá vôi dễ thấm nưóc.
Mật độ lưới sông vùng Phan Rang, Phan Thiết cũng thưa thớt vì lưu vực mưa ít và
bốc hơi nhiều.
Hệ số dòng
chảy là tỉ số giữa lớp dòng chảy (mm) và lớp nước
mưa rơi trên lưu vực (mm) tạo nên lượng dòng chảy đó.
Hệ số sử dụng
nước là tỉ số giữa lượng nưóc thực sự sử dụng và
lượng nước được cung cấp. Hệ số này phản ánh tình hình mất nước trong qúa trình
sủ dụng. Trong một hệ thống tưới ruộng thì hệ số này cho thấy tình hình mất
nước từ nguồn tới ruộng như tổn thất do ngấm, bốc hơi, rò rỉ qua các bờ kênh. Thường
hệ số này từ 0.5 đến 0.8. Muốn tránh rò rĩ trên kinh tưới, nhiều nơi dùng giải
pháp bê tông hoá hoặc plastic hoá các kinh
Hệ số thấm là tốc độ thấm nưóc vào đất
Hệ số tưới là lượng nước tưới cho một đơn vị diện tích cây trồng trong một đơn
vị thời gian. Tính bằng l/sec/ha. Ví dụ trên lúa là 1 lit/sec/ha, nhưng trên bắp thì chỉ 0. 7 l/sec/ha
Hệ số nhám. Trong kinh dẫn nước có thể có thực vật phát triển, tăng độ gồ ghề
của bề mặt, ảnh hưởng đến dòng chảy
Mođun dòng
chảy là lưu lượng nước sinh ra trung bình trên một
đơn vị diện tích lưu vực trong một giâỵ.
Tính ra là
lít/sec/km2.
Mođun dòng chảy năm lớn nhất đạt tới 70-
80lít/sec/km2 tại lưu vực sông Tả Trạch (sông Hương) và nhỏ nhất chỉ có 5-10
lít/sec/km2 tại lưu vực song Lủy Phan Thiết. Môđun dòng chảy đỉnh lũ có thể đạt
20-30 m3/sec/km2
Dòng chảy bùn cát, còn gọi là dòng chảy rắn là
lượng bùn cát do dòng nước vận chuyển trong lòng sông qua một mặt cắt nào đó,
trong một khoảng thời gian nhất định như ngày, tháng, năm.. Sông Hồng và sông
Cửu Long có dòng chảy bùn cát nhiều phù sa lơ lửng rất lớn.
Kênh dẫn nước đưa nước từ công trình đầu mối
(đập, hồ, nhánh sông v.v.) về phân phối cho hệ thống kênh điều tiết nước mặt
ruộng, còn kênh tiêu (canal de drainage) dẫn nước thừa trên ruộng ra sông hoặc
ra khu chứa nước tiêu
Tưới nước có nhiều phương pháp:
Tưới ngập (submersion irrigation) tạo một lớp nước trên
ruộng như trồng lúa . Đòi hỏi phải san bằng đất và đắp nhiều bờ để giữ nước
Tưới rãnh (furrow irrigation) hoặc tưới thấm: đưa nước
chảy theo rãnh để nước thấm vào đất theo chiều ngang, giữ được đất thông khí và
xốp. Ứng dụng cho bắp đậu trồng theo hàng
Tưới nhỏ giọt (drip irrigation): cung cấp nước từng giọt
trực tiếp vào gốc cây . Nước tưới được lọc sạch cặn nếu không lỗ bị bít. Lưu
lượng tưới rất nhỏ (thường chỉ vài lít trong một giờ) vừa đủ thấm vào đất
Tưới phun (Sprinkler irrgation): dùng máy bơm hút nước
và phun lên thành hạt nhỏ như mưa . Ưu điểm là không cần đắp bờ, san bằng đất
khi tưới nhưng khuyết điểm là tăng bốc hơi, tăng ẩm độ không khí có thể tạo
điều kiện cho bệnh thảo mộc và ngoài ra, thiết bị bơm đắt tiền
12. Các vấn nạn những dòng sông
Dòng sông vốn là một tài nguyên qúy giá nhưng gặp các vấn nạn sau đây :12.1 Lũ lụt
Vì các dòng sông miền Trung không dài, độ dốc
núi non rất lớn, đồi núi trọc, không cây che phủ nên nước mưa, vốn tập trung
vào vài tháng trong năm, dễ gây ra lụt,
nhất là từ Thanh Hoá đến Quảng Nam. Rừng bị phá hại đã làm các qúa trình địa mạo tiêu cực như xói mòn,
rửa trôi, trượt lở đất xảy ra nhanh chóng .
Rừng có ảnh hưởng đến các yếu tố thủy văn trong
lưu vực: rừng hạn chế dòng chảy mặt, chuyển nước mặt thành nước ngầm, nhờ vậy
có tác dụng điều tiết nguồn nước sông suối Rừng bảo vệ đất trên các triền lưu
vực, giúp chống xói mòn. Những lưu vực
có rừng che phủ thì độ ẩm không khí tăng cao, làm tăng lượng nước rơi địa hình.
Chính nhờ các khả năng điều tiết to lớn như vậy của rừng nên sự phá rừng bừa bãi trên lưu vực đã dẫn
đến những kết qủa tai hại như lũ lụt xảy ra, hạn hạn tiếp diễn, xói mòn triền
dốc, đem theo cả sỏi đá lẫn cát bùn làm nhiều hồ chứa nước dễ bị bít và cạn,
phải nạo vét định kỳ
12.2 Hạn hán. Cũng vì phá rừng nên lượng mưa chảy tràn trên
mặt (runoff) nhiều hơn lượng nước mưa thấm vào đất. Gặp mùa nắng kéo dài hoặc
khi mùa mưa kết thúc sớm, lưu lượng trên
sông giảm dần nên nhiều nơi thiếu nước sinh hoạt.
12.3 Mặn
hoá Do bùng nổ dân số, sinh đẻ búa xua không kiểm soát, các đồng bằng miền Trung có diện tích đất trồng trọt được càng ngày càng nhỏ nên phải tận dụng thâm canh vào mùa khô, do đó phải bơm nước tưới ruộng, làm nước nhiễm mặn càng xâm nhập sâu. Do bơm nước, mực nước hạ thấp, cường độ thấm nước từ các sông tăng lên, làm nước mặn ngoài biển lấn vào.Vào cuối mùa nắng, khi dòng chảy của sông ngòi nhỏ nhất thì độ mặn lên xa trên mọi dòng sông miền Trung, gây khó khăn cho dân chúng về nước uống cũng như về tưới hoa màu. Cũng có chỗ hệ thống đê ngăn mặn bị vỡ khiến nhiều ruộng bị mặn, không trồng trọt được.
12.4 Sạt lở
bờ sông . Sự khai thác bừa bãi càng ngày càng nhiều
các tài nguyên như cát, sỏi, vật liệu xây dựng trên các dòng sông để xây cất
trong qúa trình đô thị hoá cũng như xây kè lấn ra bờ sông làm thay đổi dòng chảy hiện có, thay đổi cấu
trúc/kết cấu/ địa mạo dòng sông, gây nhiều vực sâu, đưa đến tình trạng sạt lở
về lâu dài, như tình trạng các dòng sông như Thu Bồn, Trà Khúc v.v. khiến nhiều gia đình sống mấp mé bên các
triền sông phải di dời hàng năm.
12.5 Bùn cát
lơ lửng : nếu nhiều trong dòng nước thì các hồ chứa bị bồi đầy nhanh chóng. Sự phá
rừng trên thượng nguồn làm bào mòn lưu
vực và do đó, lượng phù sa lắng đọng sẽ
tăng cao lòng sông và làm giảm sự thoát lũ. Sông Hương chảy qua thành phố Huế
là một ví dụ điển hình: bùn cát làm dòng sông đục ngàu, không còn xanh trong
như xưa.
12.6 Thủy
triều và sóng lớn . Các rừng ngập mặn bị phá để làm
đìa nuôi tôm, nên các làng duyên hải càng bị gió ngoài khơi thổi mạnh, không có
hàng rào thực vật thiên nhiên chống đỡ, nên triều cường và sóng lớn lấn sâu vào
đất liền; nhiều đìa nuôi tôm, nhièu ao nuôi cá cuốn trôi ra biển. Triều cường
làm nhiều vùng thấp bị ngập hư hại và làm các đê bao, đê ngăn mặn bị phá hủy .
Khi thủy triều vào trong sông, độ mặn lan truyền, khuyếch tán. Dưới tác dụng
của dòng triều, nước biển xâm nhập vào sông, đi về hướng thượng nguồn. Chiều
dài xâm nhập phụ thuộc vào cường độ của dòng triều và lượng nước trên thượng
lưu đổ về.
12.7 Ô nhiễm
nước
Nếu xưa kia,
nước quan trọng thì ngày nay, nước lại càng quan trọng hơn. Lý do chính là do áp lực dân số,
tạo nên nhu cầu nước. Kỹ nghệ phát
triển, đô thị phát triển, dân số phát triển kéo theo nhiều phế thải và nhiều ô
nhiễm; nhưng vì mọi ô nhiễm dù là từ đất (bãi rác rò rĩ, thuốc sát trùng, phân
bón ), dù là từ không khí (từ các khu kỹ nghệ, từ khói xe) nhưng cuối cùng
rồi cũng phải chảy về chỗ thấp, nghĩa là
vào nước.Tóm lại, nước không những phải nhiều cho một dân số càng ngày càng
tăng (Việt Nam nay đã 80 triệu dân) mà còn phải
sạch để bảo đảm sức khoẻ. Nước mà dơ bẩn thì vô hình gây ra một gánh
nặng cho nền y tế. Đặc biệt, trên các dòng sông miền Trung, có nhiều vạn đò
sống trên sông và sử dụng trực tiếp nước
sông nên dịch bệnh là một ám ảnh thường
xuyên .Thực vậy, phần lớn phân người từ các đô thị đi thẳng vào sông ngòi mà
không được xử lý. Rác rến đổ thẳng vào sông, nhiều dòng sông trở nên dơ bẩn,
hôi hám và lại lấy nước đó để giặt giũ !13. Quản trị các lưu vực
Mọi vấn nạn trên
đều có tương quan với nhau. Mùa mưa, nước lụt cuốn trôi nhà cửa ruộng vườn vì
mưa lũ nhiều do rừng đầu nguồn bị phá; mùa nắng thì do bơm nước nhiều qúa sự
luân lưu của dòng chảy (nước mặt và nước ngầm ) nên nước mặn xâm nhập sâu vào nội địa.
Muốn giải quyết
các vấn nạn trên, sự quản trị đồng bộ của lưu vực đòi hỏi những biện pháp tổng
hợp :
-trồng rừng ở
đầu nguồn để chuyển một phần nước mặt thành nước ngầm nhằm hạn chế nưóc lũ dồn
về hạ lưu qúa nhanh, kéo dài thời gian truyền lũ. Rừng cây giúp giảm tốc độ
dòng chảy, giảm lượng nước chảy tràn bề mặt và lượng đất bị xói mòn.
Sự phát triển kinh tế và bảo vệ tài nguyên
rừng không loại trừ lẫn nhau; đúng hơn, chúng phụ thuộc và hỗ trợ cho nhau .
Tài nguyên rừng bảo vệ tài nguyên nước và nhờ tài nguyên nước, mới có những đập
thủy điện nhỏ trên các vùng núi non, giúp nông dân thôn bản có thể giải trí nhờ
truyền hình, giúp xay lúa, chà gạo, giải phóng phụ nữ khỏi các việc nặng nhọc
lam lũ.
-xây dựng các hồ chứa đầu nguồn để tích nước
nhằm giảm mức độ của lũ. Các công trình giữ nước trên núi hay vùng gò đồi
giúp điều tiết lượng nước. Có thể nuôi
cá trên các hồ được đào theo hệ thống hồ bậc thang có phun nước, nhận nước và
xả nước. Trên các suối, xây đập , làm hệ thống nước chảy tự động từ suối vào
vườn để tưới cây trồng.
-xây dựng các
đập tức là những công trình chắn ngang dòng chảy, ngăn nước hoặc tạo thành hồ
chứa để điều tiết lưu lượng, bớt được lũ lụt ở hạ lưu vào mùa mưa, bổ sung
nguồn nước vào mùa nắng để tưới ruộng, cấp nước sinh hoạt, cải tạo môi trường
đầm phá, tạo đầu nước phát thủy điện.
-phân một phần
lưu lượng lũ của sông chính vào sông nhánh.
Và lồng ghép vào
chương trình trên phải là một chuơng trình điều hoà dân số,- chú trọng vào chất
lượng hơn là số lượng dân-, cũng giúp cải thiện môi trường sống, vì có sự liên
hệ chặt chẽ giữa dân số và môi trường .
14 .Kết luận.
Xưa kia, không ai đặt nặng vấn nạn nước vì nước trong sạch, dồi dào. Nhưng ngày nay, dân số tăng lên kéo theo một loạt nhu cầu về năng lượng, về thực phẩm, về nhà cửa, về vật tiêu dùng nên nhu cầu về nước, từ nước sinh hoạt, nước nông nghiệp, nước kỹ nghệ càng ngày càng tăng, huống hồ với sự biến đổi khí hậu vì khí nhà kính, sự phá rừng, sự ô nhiễm lại làm nguồn cung cấp nước bị giảm đi, cả lượng lẫn phẩm . Con người phải nhận thức rằng nước là một tài nguyên hữu hạn nên càng phải trân quý, nghĩa là không phá rừng vì rừng làm tăng nguồn nước, không phung phí nước mà gắng tái chế biến.
Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều
có thời:
một thời để chào đời, một thời để lìa
thế; một thời dể phá đổ, một thời để xây dựng;
một thời để khóc lóc, một thời để vui cười;
một thời để than van, một thời để múa nhảy;
một thời để xé rách, một thời để vá khâu;
một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng (Giảng Viên 3:1-4, 7-8).
Ngày nay, chính là thời để lên
tiếng, kêu gọi mọi người phải có tình thương Trái Đất, tình yêu thiên nhiên.
Yêu thiên nhiên là không làm tổn hại đến thiên nhiên, núi rừng, cây cỏ . Yêu
thiên nhiên là không làm nguồn nước bị ô nhiễm bởi các chất độc hại khiến cho
con người cũng như các động vật không bị chết dần chết mòn . Niềm yêu thiên
nhiên đưa ta đến khái niệm đạo đức sinh thái, không làm tổn thương đến
các hệ sinh thái vốn nuôi nấng loài người từ thưở hàng trăm ngàn năm trước, lúc
loài người từ vùng Đông Phi châu bắt đầu tản mác bốn phương. Phong trào ăn chay
hiện nay cũng đóng góp rất nhiều cho môi trường thiên nhiên. Thực vậy, ăn chay
giúp tiết kiệm rất nhiều đất vì không cần đồng cỏ, không cần có thực phẩm nuôi
gia súc, tiết kiệm luôn cả nước tưới . Con người đã huỷ hoại môi trường thì
chính con người phải đóng góp cải tạo môi trường sống, nghĩa là bớt tiêu thụ,
bảo vệ các hệ sinh thái từ rừng đến san hô biển, tạo ra một nếp sống hài hoà, sống
an lạc cả Thân lẫn Tâm. Hiện nay, xu thế chung của thời đại là theo chiều hướng
đó; nếu ta tiếp tay với các nhà sinh thái học bốn phương để dấy lên một phong
trào yêu thiên nhiên,-màu xanh của rừng, của biển, của mây, của nước- thì có lẽ
trái đất này mới thoát hiểm nghèo vậy .
Thái Công Tụng