ĂN TẾT
Mạnh Bích
Năm 1993, JC
Pomonti có viết một bài báo tựa là « Quand
les Saigonnais mangent le Têt – Khi người Sài Gòn ăn Tết ».
Khi dùng cụm từ ‘‘manger
le Têt’’, dù
đã có dạy học ở Việt Nam (trường JJR và Đại HọcVăn
Khoa) và lấy vợ Việt, hình như ông cựu giáo sư đại
học, nay là phóng viên của tờ
báo Le Monde
này muốn tỏ sự hiểu biết sâu sắc về VN. bằng cách
viết một bài nói về lối đón mừng năm mới của dân
ta. Trong bài báo, ông ấy nêu lên những nét đặc thù của
sự « ăn Tết » của ta như sau :
- người ta
chăm lo việc ăn uống cho cả ông bà tổ tiên, thần thánh
(on
nourrit également ancêtres, dieux et génies)
- Tết mà không
xài tiền (đánh bạc, mua sắm) thì không phải Tết (Le
Têt n’est pas le Têt quand on ne gaspille pas son argent)
- Ngày đầu
năm, trẻ con đứng vòng tay nói lời chúc tụng (như con
vẹt) cha mẹ và các bậc trưởng thượng để được
thưởng tiền bằng những đồng bạc mới (lì xì) (Le
Jour de l’An, debout et les bras croisés, les enfants récitent
leurs souhaits aux parents et ainés, en échange de quoi ils
reçoivent des billets de banque neufs…)
Cái
« ăn Tết » của ông ấy nói đến là lối ăn
Tết của những người Miền Nam Việt Nam ở TP Sài gòn
tân thời trong những thập niên gần đây…
Cách « ăn Tết » với mấy đặc điểm trên kia
rất khác xa với tục ăn Tết cổ
truyền của
ta. Cho nên Pomonti không hiểu được người Việt Nam chính
thống, thuần túy ăn Tết trong tinh thần Đón Mừng Năm
Mới, tống cựu nghinh tân, như thế nào và cái sự
« ăn Tết » của người Việt Nam có những cái
đặc biệt gì.
Phải hiểu rõ
những cái đặc biệt ấy mới hiểu tại sao người Việt
nói là « ăn Tết ».
Với
bài này của tôi không có dụng ý châm biếm một người
trí thức không cùng văn hóa nhưng tôi muốn bàn đến cái
ưu
việt của văn hóa Việt Nam.
Tại sao người Việt Nam ta nói là « ăn Têt ».
Trong ngôn ngữ của ta, ăn là cái gì và Tết là cái gì
mà mình « ăn » được ? Xin thưa ngay, chúng
ta nói phải nói là « ăn Tết » thì chúng ta mới
nói lên được tất cả cái hay, cái đẹp, cái lý thú,
cái cao siêu của những ngày lễ
hội đầu năm
ấy. Vâng, sự « ăn Tết » của ta bao gồm cả
một trời triết lý tuy huyền nhiệm nhưng rất « dễ
thương » của tinh thần tổ chức « đón mừng
vận hội mới ». Xin bàn rõ hơn :
1- Trước
hết là vấn đề ăn :
Theo Socrate thì con-người muốn sống cho ‘‘ra
người’’ phải dùng phương châm : ‘‘Ăn để
mà sống chứ không phải sống để mà ăn’’. Mấy
ông-Tây-xưa này nói chuyện triết lý nghe kỳ cục quá.
Làm như vậy thì hóa ra người cũng nên « làm »
giống như mọi sinh vật khác ; trâu, bò chó, ngựa,
voi, khỉ, vượn, hươu, nai... ăn cỏ, cây trái « để
sống » ; beo, cọp, sư tử, chó sói, diều hâu,
cá mập v.v. ăn thịt tươi sống cũng ‘‘ăn để sống’’.
Còn nói rằng « ăn cho ra người », thì theo tôi, phải
ngược lại : người ăn thì phải có cái ý muốn cao
siêu, đặc biệt là « thực tri kỳ vị ». « Ăn
cho ra người » là ăn cho có ý nghĩa, là phải biết
ngon dở, phải biết mùi vị, tốt xấu, là phải ăn cho
có... nghệ thuật (nghệ thuật là nhân tính). Nói cách
khác : người muốn sống cho ra người thì phải tìm
cái thú, cái hay trong « sự ăn » ; nói rộng
ra « biết sống là phải biết ăn » hay nói cho
gọn, cho tiện : ‘‘sống để mà ăn’’. Sự sống
và sự ăn liên kết với nhau trong cuộc sống, tuy hai mà
một không như sự sống và sự chết liên kết với nhau
như bóng với hình.
Tôi không nói
hàm hồ đâu. Cách
ăn uống là thước đo trình độ văn minh của mỗi dân
tộc.
Nhân loại thời ở lỗ, ở hang mới « ăn lông »
còn khi đã tìm ra lửa, trồng được ngũ cốc thì không
« ăn lông » nữa. Về sau, tùy trình độ văn
minh tiến bộ, dân tộc nào cũng tìm ra một lối-ăn, một
nghệ-thuật-ăn hợp với lối-sống của mình. Có dân tộc
ăn bốc, có dân tộc dùng đũa, có dân tộc dùng muổng,
nỉa, dao, kéo v.v. Có dân tộc ăn bò-bo, có dân tộc ăn
khoai mì (sắn), có dân tộc ăn lúa mì, có dân tộc ăn
gạo v.v.
Các dân tộc
khác thì tôi không biết rõ chứ người Pháp-Cổ, đối
với nghệ thuật ăn uống, họ cũng suy nghĩ kỹ càng lắm.
Từ thế kỷ thứ 16, trong tinh thần hâm mộ nét cao
siêu về sự ăn của dân Gaulois
vào
thời kỳ xa xưa, ông Rabelais, đã ‘‘chế tạo » ra
những nhân vật Gargantua, Pantagruel đểõ nhiệt thành
quảng cáo cho sự ‘‘sống để mà ăn, ăn cho ra người’’.
Ông-ấy đưa ra những câu phương châm rất xác đáng (đối
với một dân tộc trân trọng sự ăn) để khuyến dụ
sự tôn vinh việc ăn:
- càng ăn
nhiều càng khoái nhiều, càng uống nhiều càng sướng
nhiều -
l’appétit vient en mangeant... la soif s’en va en buvant
– Thượng Đế
tạo hành tinh (còn) Con Người (thì) chế thức ăn ngon -
le
Grand Dieu fit les planètes, Nous faisons les plats nets
Nhờ tinh thần
« tham ăn » ấy mà triết lý Pháp tìm ra được
lẽ uyên nguyên của thuyết nhân bản. Và nước Pháp mới
đoạt được cái tước hiệu huy hoàng « xứ sở của
sự ăn ngon mặc đẹp » mà các dân tộc Âu Mỹ khác
thường sùng thượng hoặc … ganh tị. Người Pháp chính
thống phải biết biết thưởng thức mùi vị tuyệt diệu
của mỗi món phó-mát (mùi càng nồng nặc vị càng dậm
đà) khi ăn kèm với một loại rượu thượng thặng, vừa
nhắp nhẹ khỏi môi, thấm vào đầu lưỡi đã thấy tâm
thần đê mê ngây ngất. Muốn chính lý hóa sự « điệu
nghệ » ấy người Pháp có hệ thống định hướng
thẩm vị Michelin để xếp hạng những nhà-hàng-ăn theo
giá trị của những món ăn ngon và « không khí »
ăn-ngon. Người sành ăn (-chơi) phải tìm đến những nhà
hàng bốn, năm sao để thưởng thức mùi vị và tài nghệ
nấu ăn của Đại Pháp.
Nhưng « sự
ăn » được người Pháp chú trọng về phương diện
nghệ thuật chứ không hẳn về ý nghĩa, về tinh thần
ăn. Đấy là vấn đề của những nước có một nền văn
minh vật chất, khoa học kỹ thuật cấp tiến. Người Á
Đông thì không « làm » như vậy. « Sự ăn »
của Tàu, của Nhật, của Đại Hàn không giống như vậy.
Ăn đối với người Á Đông trước hết và căn bản là
một hành động để sinh
tồn, để tiếp dẫn sự có mặt của mình trong vũ trụ.
Mà đã nói đến sinh tồn thì phải có ý nghĩa của nó,
phải hợp với lẽ sinh tồn của con-người nói riêng,
của vạn vật nói chung. Cho nên « ăn » đối với
người Á Đông không phải là một nghệ thuật mà thôi,
ăn cho khoái khẩu, ăn cho đã thèm, đã nư ; ăn đối
với người Á Đông là đặt vấn đề
thụ ân thiên địa.
Do đấy, riêng
đối với người Việt, sự ăn phải được thể hiện
theo « đạo Trời ». Khi ăn, không những người
ăn phải nhớ đến công lao của người nông phu (kiểu
suy nghĩ của Sully Prudhomme trong bài Le
semeur) ;
người ăn phải biết trân trọng cái « hột ngọc »
của Trời ban cho. Khi nói đến việc « ăn »,
người Việt Nam luôn nhắc đến chữ « cơm »
như ăn
cơm tiệm
(dù sẽ ăn phở, ăn không có cơm), ăn
cơm tây
(với bánh mì), ăn
cơm tàu
(với những món tầu ăn kèm với mì sợi làm bằng bột
mì) vì món ăn chính của ta là cơm, nấu bằng gạo. Miếng
cơm thơm ngon dẻo ngọt mà ta ăn ấy trước kia là luá,
là gạo được tạo thành bằng mồ hôi bằng công sức
của người nông phu :
Dưới
đầm cạn, trong đầm sâu
Chồng cày
vợ cấy, con trâu đi bừa.
Và của
Ông-Trời đã làm cho mưa thuận gió hòa, thể theo lời
Lạy
Trời mưa xuống
Lấy nước
tôi uống
Lấy ruộng
tôi cày
Lấy đầy
bát cơm.
Lấy rơm
đun bếp…
Từ tinh thần
tôn thờ Trời ấy, từ tính cảm nhiệm sự có-mặt
(immanence)
của Trời trong mọi « sự» (phénomènes) và
« vật »
(choses, êtres)
ấy, con-người Việt xem « sự ăn » là một
vấn đề tinh thần và
chữ « ăn » được ghép vào mọi hành vi của
mình. Cho nên, ngôn ngữ Việt Nam có gần một trăm cách
nói có dùng chữ « ăn ».
Trong sự sống
của loài người, Việt Nam ta hay ai ai cũng vậy, chỉ có
mấy vấn đề sau đây là quan trọng, liên quan đến sự
điều động cuộc sống bình thường :
- ăn
uống :
ngay về mặt thực tế « ăn để mà sống »,
không ăn thì chết (đói) cũng đã có vấn đề « tinh
thần ăn » rồi : đói mới ăn, khát thì uống,
nhưng phải có chừng mực, giờ giấc, điều độ. « Tham
thực cực thân »
là một phương châm trở thành tính chân lý rồi, ai cũng
biết. Nhà Nho nói « thực
vô cầu bảo »,
đấy là phương châm của những bậc đại nhân quân tử
trên đường « minh minh đức » còn người dân-thường
nói dễ hiểu hơn : ăn uống phải từ tốn không nên
ăn
tham, ăn như mỏ khoét, uống ừng ực như trâu bò; khi
ngồi vào ăn phải nhớ ăn
trông nồi, ngồi trông hướng v.v.
- ăn
nằm :
bên cạnh « sự ăn » để sống, để bảo vệ
sự trường tồn của giống người, có chuyện « ăn
nằm » mà người Việt Nam xem là quan trọng bậc
nhất. « Ăn nằm » là chuyện nam nữ, chuyện vợ
chồng, chuyện kết hợp giữa hai giống người, biểu
tượng cho sự hòa hợp âm dương trong Trời, Đất. Do
đấy, từ ngàn xưa, luân lý, luật pháp của người Việt
ta, từ thời nhà Lý đã chuẩn định trên nguyên tắc đạo
đức, hợp với « đạo Trời ».
Ngoài ra, trong
cuộc sống xã hội, muốn cho có sự thuận hòa trong sự
liên hệ của « ta » với « người »,
ngôn ngữ của ta có nói đến BA vấn đề « ăn »
khác. Ba vấn đề ấy phải được xem là căn bản của
tâm thức Việt Nam ; đó là :
- ăn
ở :
vào trường hợp này, chữ « ăn » được ghép
vào chữ « ở » không phải để chỉ riêng mặt
cụ thể của hai vấn đề : ăn cho no bụng và nhà
cửa, nơi ăn chốn ở; trái lại, đấy là một cụm từ
mang một ý nghĩa rộng rãi, bao bọc cả cuộc sống « xã
hội » của con người. Nó xác định được cái
« bào hao » của từng con-người. « Ăn ở »
có nghĩa là cách cư xử. Lối ăn, nếp ở là phong cách
của một con-người trong xã hội, là sự đối đãi của
một cá nhân này với cá nhân khác, là nề nếp của một
xã hội lấy « đạo Trời » làm gốc.
Câu
thơ :
Ở
sao cho vừa lòng người
Ở rộng
nguời cười, ở hẹp người chê
và câu tục
ngữ
Ở bầu thì
tròn, ở ống thì dài
xác định rõ
ràng, khéo léo vấn đề cách đối xử với nhau của
con-người ; nó cần bao gồm tất cả ý nghĩa sâu sắc
của triết thuyết trung hòa trong nguyên lý tam tài :
trời,
đất, người
nên ta phải nói là « ăn ở »
- ăn
nói :
không phải nhờ đến ảnh hưởng nho học người dân
Việt mới đặt tiêu chuẩn cho cái đẹp tinh thần của
cái chuyện « lời ăn tiếng nói » này. Trong số
« Mười thương » xác định vẻ đáng quí, đáng
yêu của người phụ nữ Việt Nam, « ăn nói »
được xếp vào hàng nhì :
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương
ăn nói mặn
mà
có
duyên
Thật vậy, để
bảo vệ sự « hạp nhãn », sự thu hút người
nam đến với người nữ mái
tóc là vóc con-người,
trong cuộc sống chung đậm đà, êm đẹp, lời ăn tiếng
nói « mặïn mà » làm đẹp tình người đã đành
(gừng cay muối mặn,
xin đùng bỏ nhau), lối « ăn nói » dịu dàng, từ
tốn, khôn khéo là nền móng của sự « nên duyên ».
Do đấy, đạo
lý Việt Nam chấp nhận dễ dàng khuôn phép trau dồi đức
hạnh cho con-người bằng ngũ thường, bằng tứ đức của
Khổng Mạnh. « Trai
thời trung hiếu làm đầu »
là phương châm của nam tử trong xã hội, còn cái thước
đo giá trị của con-người ứng viên làm quân tử nằm
trong khuôn khổ của năm hạnh : nhân,
nghĩa, lễ trí, tín.
Mà trong năm hạnh này, đã có ba
cái liên quan trực tiếp đến cách « ăn nói »
rồi; nó tóm gọn tất cả ba hạnh : lễ
(ăn nói đứng đắn, có phép tắc), trí
(ăn nói khôn ngoan », tín
(nói không sai lời, nói và làm phải giống nhau).
Đối với phân
nửa kia của nhân loại, tôi thiết tưởng, muốn đóng
trọn vai trò « nội tướng » theo nho phong, người
phụ nữ cũng phải chú trọng đức « ngôn ». Lê
Quí Đôn dùng lời bà-mẹ « khuyên
con lúc về nhà chồng »
cốt để tôn vinh cái đẹp tinh thần của « lời
ăn tiếng nói ».
ăn chơi :
liên quan đến sinh thú ở đời. Có lẽ đây là vấn đề
hay đẹp nhất trong tâm thức của người Việt Nam. Ăn để
mà sống, nhưng sống mà không chơi, không có lúc nghỉ xả
hơi, không có cách làm cho sự sống được thoải mái thì
không hợp lý. Huống nữa, dân Việt Nam vốn sống với
nghề nông, đầu tắt mặt tối, chân lấm tay bùn, mà
không có lúc chơi thì ... không được. Đã có « ăn »
thì phải có « chơi ». Cho nên, người Việt Nam
rất trọng sự « ăn chơi », nghĩa là xem sự tìm
kiếm thú vui (sinh thú) là một điều không thể bỏ qua
được. Trong dân gian, có những hội hè, đình đám với
những cuộc vui tưng bừng, những cách chơi nhộn nhịp
như : đua thuyền, đấu vật, thổi cơm, hát quan họ,
đánh bài chòi v.v... Giới thượng lưu trưởng giả bày
ra cầm, kỳ, thi, họa. Chung chung, người Việt Nam rất
thích ăn chơi : đường
ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay.
Đến
đây, chúng ta có thể thấy rõ tại sao trong ngôn ngữ của
ta, để nói đến bất cứ sinh hoạt, hành động nào,
cũng có « sự ăn » đi kèm. Ví dụ : để
nói lên sự hòa hợp rõ ràng, ta thường dùng những
chữ : ăn
ý, ăn khớp, ăn ảnh, ăn bẩn, ăn gian hoặc
đối với những vấn đề tế nhị, bí hiểm hơn, ta
nói : ăn
thề, ăn sương, ăn xôi. Sự
ăn, ý niệm ăn, trong ngôn ngữ của ta, được dùng để
nói lên cái ý muốn phải sống
hợp với đạo Trời,
nghĩa là sự sống phải xây dựng, tạo lập bằng tinh
thần hòa hợp với Trời Đất, Người (thiên thời, địa
lợi, nhân hòa).
Đến
đây, chúng ta có thể bàn đến vấn đề khúc mắc :
« ăn
Tết ».
Nó gồm có hai khía cạnh : Tết
là gì và Ăn
trong dịp Tết.
2- Ý
nghĩa chữ Tết :
Ai cũng có nghe nói đến cái định nghĩa : chữ Tết
là cách nói trại của chữ Tiết, có nghĩa là đốt tre,
khớp xương, nói rộng ra là giai đoạn, thời kỳ. Người
Tàu thường phân biệt những tiết lập xuân
(5 tháng 2 đến 6 tháng 5),
lập hạ (7
tháng 5 đến 8 tháng 8) ;
lập thu (9
tháng 8 đến 8 tháng 11)
lập đông
(9 tháng 11 đến 4 tháng 2).
Đến ngày đông chí 22 tháng 12, ngày ngắn nhất trong năm,
Ông Táo sửa soạn sẵn (có người phàm trần phụ một
tay bằng cách làm Sớ sẵn) để hôm sau về Trời gặp
Ngọc Hoàng Thượng đế, tấu trình sự việc ở nhân
gian.
Đối
với Việt Nam vốn là nước nông nghiệp, sự sống (+
chết), cuộc sống được điều động theo nhịp độ
thời tiết mưa
nắng, bốn mùa. Việc trồng trọt phải thuận theo từng
mùa :
Tháng chạp
là tháng trồng khoai
Tháng giêng
trồng đậu, tháng hai trồng cà,
Tháng
ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng
tư làm mạ mưa sa đầøy đồng...
Cuộc
sống theo một nhịp điệu riêng phù hợp với sự tuần
hoàn trong Trời Đất:
Tháng
Giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng
hai cờ bạc, tháng ba hội hè
vì :
Tháng
giêng là tiết mưa xuân,
Tháng
hai mưa bụi dần dần mưa ra.
Đến
« tháng
ba cày vỡ ruộng ra »
sau đấy là « tháng
tư làm mạ »
và trong khi chờ đợi « tháng
năm gặt hái »
thì :
Tháng
tư đong đậu nấu chè
Ăn
Tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Cuộc
đời cứ như vậy mà sống một cách êm đềm theo nhịp
điệu « mưa thuận gió hòa » cho đến « tháng
một, tháng chạp nên công hoàn thành ».
Và tiện lợi thay, tháng chạp, trời lạnh, vào mùa khô,
việc đồng áng tạm ngưng, người nông phu nghỉ ngơi ăn
Tết, mừng đón mùa màng sắp đến.
Cái
niềm vui « nên công hoàn thành » ấy do Trời
Đấát ban cho, cho nên lời ca dao « nhờ
trời một mẫu năm nong thóc đầy » mang
nặng lòng nhớ ơn ; nó giục giã người nông phu,
người dân tổ chức Lễ Hội mừng Năm Mới thật tưng
bừng, trang trọng. Những ngày lễ hội tưng bừng náo
nhiệt « mừng đất, nhớ trời » của ta đượïc
gọi là Tết Nguyên Đán gọi tắt là Tết.
3-
Ý
nghĩïa chuyên ‘‘ăn Tết’
Trong
tinh thần « nhớ
ơn Trời đất »
ấy, người Việt Nam tổ chức ngày lễ hội đầøu năm
- nghĩa là ăn Tết - với những tập tục khá riêng biệt :
-
thờ cúng Trời Đất
: Trong khi Vua và Triều đình lo Tế Trời Đất ở đàn
Nam giao (kinh đô Huế) người dân, sau khi làm lễ tiễn
đưa Ông Táo về Trời, tổ chức ngày Lễ Hội Đầu Năm
bằng những buổi lễ Giao thừa, dựng nêu, lễ Tổ Tiên,
lễ đi hái lộc (xuất hành).
Trong
những buổi lễ, trên bàn thờ phải có bánh chưng, bánh
dầy và những trái cây đặc biệt Việt Nam: mãng cầu,
dừa, đu đủ, xoài.
Theo
tục lệ cổ truyền có sẵn từ đời Hùng Vương, người
Việt phải dùng loại thực vật địa phương để làm
bánh cúng: bánh
chưng
(bánh tét) gói bằng lá dong, với gạo nếp, đậu, hành,
thịt heo và gia vị hành, tiêu, muối. Bánh chưng hình
vuông tượng trưng cho Đất, thuộc Âm; bánh
dầy là
một khối đơn thuần, chắc, dẻo, màu trắng tinh của
nếp. Bánh dầy hình tròn, mặt trên tròn, mặt dưới
phẳng, tượng trưng bầu trời, thuộc Dương. Nhìn cái
bánh chưng, bánh dầy, ăn một bánh chưng, cắn một miếng
bánh dày, người Việt tưởng nhớ đến nguồn gốc của
mình, của ông bà tổ tiên, để tự nhắc nhở rằng mình
phải sống thuận hợp với Trời Đất. Đấây là theo
đúng đạo trời, theo đúng lẽ âm dương, hiểu được
cái lý uyên nguyên : vạn vật đồng nhất thể, mọi vật
đều có cha có mẹ.
Ngoài
ra còn có những thứ hoa quả, bánh mứt được chọn lựa
cho ngày Lễ Hội Mừng Đón Năm Mới này nữa như ngũ
quả: cầu, sung, dừa, đủ, xoài (cầu xin vừa đủ xài ?)
các món ăn gồm có ngũ vị, ngũ sắc.
-
tôn
kính tổ tiên :
Đạo Trời đặt nền tảng trên lòng biết ơn Trời Đất,
buộc con-người Việt Nam phải « ăn ở » thuận
thảo với những bậc cha mẹ (= sinh thành nói chung, kể
cả Trời Đất). Cho nên khi nói đến đạo Trời, mặc
nhiên ta nghĩ đến đạo Hiếu (gồm có bộ lão trên chữ
tử) với nghĩa từ nguyên : tỏ lòng biết ơn người
trên (bậc sinh thành) bằng lòng tôn kính, sự tôn thờ.
Đạo lý Việt Nam đặt nền tảng trên tục thờ cúng tổ
tiên, mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ngày Tết mà không có
được một ít hương hoa cúng bái tổ tiên là một sự
thiếu sót xem như bất hiếu. Việc mừng tuổi cũng giống
như cuộc lễ tổ tiên phải được tổ chức trang trọng
để cho những trẻ em biết tôn kính ông bà, cha mẹ và
tiền nhân.
-
sum
họp gia đình, về quê ăn Tết :
Người Việt Nam luôn luôn đặt tình cảm gia đình (tổ
tiên, cha mẹ, anh em, bà con thân thuộc) lên trên mọi liên
hệ khác. Cách ngôn của ta nói : Bà
con xa hơn láng giềng gần để
trân trọng, tôn quí trước hết là tình máu mủ, sau đó
là tình lối xóm, làng nước, đồng bào. Giữa sự tụ
họp với bạn bè để ăn mừng, để vui chơi và sự sum
họp gia đình, trở về sống cái không khí đầøm ấm
thiết tha với những người cùng máu mủ, giòng họ,
người Việt Nam thường chọn niềm vui thứ nhì. Ăn Tết
tha hương không có tình thuơng yêu của những người thân
trong gia đình, thiếu tình thân thiết của họ hàng, làng
nước, hoặc những buổi thăm viếng nhau, dù cho có « thịt
mỡ dưa hành câu đối đỏ », có những lời chúc
tụng nhau, có những cuộc lễ chùa, hái lộc cũng không
thể nào là một dịp Mừng Đón Vận Hội Mới được.
Bạn bè thân quí chưa phải là gia đình của ta, ngôi nhà,
căn phố ở xứ người không phải là đất trời của
ta ! !
Tóm
lại, ăn Tết là sự trở về với Trời Đất, ông bà,
tổ tiên. Ăn Tết phải có thờ cúng, cỗ bàn, sum họp.
Ăn Tết phải có ý nghĩa « Tôn quí Trời ».
Kết
luận :
Ăn Tết ngày nay
Chuyện
ông Pomonti xẩy ra đã hơn mười năm nhưng chưa mất tính
thời gian. Không phải chỉ ông ấy mới có cái nhìn “bề
ngoài”
về sự “ăn Tết” của Việt Nam ta., ngay cả người
Việt Nam trong và ngoài nước hiện nay cũng “ăn Tết”
khác xưa rất nhiều. Vì “ăn Tết”, như trên đã giải
bày, không như xưa nữa mà trở thành một dịp vui mừng
“vô tư”, một dịp hội họp để ăn uống, bài bạc
xô bồ. Ngày xưa, Tết kéo dài hằng mấy tháng để người
dân có dịp sum họp với bà con thân thích trong gia đình,
với bạn bè quen thuộc trong xóm làng. Sự tụ hội này
mang ý nghĩa của sự “trở về” với gia đình, với
quê nhà, đồng thời trở về với “đất trời” bằng
những cuộc lễ trang trọng dưới mái nhà từ-đường
hay giữa lòng đất nước, quê hương. Ngày xưa, những
tục lệ ngày Tết không ai xem là dị đoan để bài bác,
xóa bỏ. Ngày nay, nếu Tết không bị quên lãng thì cũng
chỉ còn là một ý niệm mơ hồ, một vấn đề không
đáng quan tâm; đối với một số người khá đông, Tết
đem lại nỗi luyến tiếc không được sống lại cái
không khí vừa thân mật vừa thiêng liêng, vừa trang trọng
vừa náo nhiệt của những ngày đón xuân trên đất nước
quê hương.
…
Belleville,
Paris tiết Mạnh Đông