MẸ
Mạnh
Bích
Tôi
vừa đọc trong quyển Cổ
học tinh hoa
một câu chuyện có tựa đề là : « Phải
giữ tấm lòng trong sạch ».
Tấm lòng trong sạch này của một người phụ nữ, một
người mẹ Tàu, đời xưa. Chuyện như thế này :
Quân
nuớc Tề kéo sang đánh nước Lỗ. Khi đến chỗ giáp
giới, trông thấy một người đàn bà một tay bồng một
đứa bé, một tay dắt một đứa nữa. Người đàn bà
thấy quân kéo tới vội vàng bỏ đứa đang bồng trên
tay xuống, mà bồng đứa đang dắt rồi chạy trốn vào
trong núi. Đứa bé kia chạy theo khóc, người đàn bà cứ
chạy không ngoảnh lại.
-
Đứa bé nàng bế trên tay là con ai ? Còn đưa nàng bỏ
liều là con ai ?
Người
đàn bàn thưa :
-
Đứa tôi bế là con anh cả tôi, đứa bỏ lại là con
tôi. Tôi thấy quân lính kéo đến, sức tôi không thể
bảo toàn được cả hai đứa cho nên tôi đành phải bỏ
con tôi lại.
Viên
tướng nuớc Tề lại hỏi :
-
Mẹ mà dứt tình yêu thương với con thì đau xót lắm.
Nay bà bỏ con mình lại mà chạy lấy con anh là cớ làm
sao ?
Người
đàn bà thưa :
-Con
tôi là
tình riêng,
con anh tôi là nghĩa
công .
Con đẻ tuy đau xót thật nhưng đối với việc nghĩa lý
thì tính làm sao. Cho nên tôi đành bỏ liều con tôi mà
làm việc « nghĩa ». Tôi không thể nào chịu
tiếng vô nghĩa mà vác mặt sống ở với nước tôi được.
Viên
tướng nước Tề dừng quân lại, sai người tâu với vua
Tề rằng :
-
Nước Lỗ chưa thể đánh bại được. Quân ta mới đến
chỗ cương giới, đã thấy con mụ đàn bà xó rừng còn
biết làm
điều nghĩa,
chẳng chịu đem tình riêng mà hại nghĩa công, huống chi
là những bậc
quan lại, sĩ phu
trong nước. Xin kéo quân về.
Vua
Tề cho là phải.
Chuyện
ấy là chuyện đời xưa của Tàu, xẩy ra trong thời chiến
tranh hỗn loạn, đạo lý thường bị dao động, suy đồi.
Người đời sau kể lại để suy gẫm về cái tinh hoa của
đạo lý Trung Hoa nhưng cái lối đề cập đến tam cương
ngũ thường của Khổng giáo ấy làm cho tôi thấy
hơi... khó chịu. Tôi không đồng ý với lối dùng
« tình nghĩa mẹ con » để tôn vinh « điều
nghĩa » như vậy. Tôi thấy có một cái gì đấy
không ổn. Còn đối đạo lý Việt Nam thì không hợp tí
nào cả.
Không
ổn vì đem « tình mẹ con » ra để nói chuyện
cương thường theo khuôn phép tôn quân phong kiến. « Điều
nghĩa » trong câu chuyện kể trên nằm trong khuôn phép
tư duy của sĩ phu, quan lại liên quan mật thiết với tinh
thần tôn quân. Điều nghĩa ấy có lẽ chưa phải là
« điều nghĩa » trong tâm lý người dân thường
Á Đông. Không ổn vì « tình mẹ con » là một
thứ tình cảm thiêng liêng, riêng biệt, không nên xem
thường, không thể nào đem « đặt thành vấn đề »
trong một trường hợp đặc biệt phong kiến tôn quân như
vậy.
Đối
với đạo lý Việt Nam, chuyện « chẳng chịu đem
tình riêng mà hại nghĩa công » này không thuận hợp
tí nào cả. Đạo lý Việt Nam, dù có chịu ảnh hưởng
Tàu thật đấy, nhưng không bao giờ đặt « tình mẹ
con » vào những tình huống như vậy để tôn vinh
« việc nghĩa ». Khi nói đến « điều
nghĩa », người Việt Nam có nói đến tình nhà nợ
nước, có nói đến tình sâu nghĩa nặng. Trong vấn đề
« tình nhà nợ nước », ta có nói đến tình nhà
chứ không động đến tình mẹ con. Trong vấn đề « tình
sâu nghĩa nặng », có tình vợ chồng với nguồn ân
bể ái, tình nghĩa mặn nồng chứ không động đến nghĩa
mẹ. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Cái « nghĩa
mẹ » ấy nằm trong « đạo » trời đất của Việt
Nam ta. Nó nằm trong những điều kiện tất yếu để bảo
tồn giống người. Không có cái « nghĩa mẹ »
ấy thì đứa con chết lập tức. Đứa con không biết đến
« nghĩa mẹ » thì sẽ đi đến chỗ tuyệt vong. Đấy
là lẽ uyên nguyên trong đạo lý Việt Nam.
Đem
so sánh chuyện tình
riêng
và nghĩa
công
trong đạo lý Tàu với đạo đức Việt Nam có liên quan
đến « tình mẹ con », tôi xin mời quí Vị
nghiệm xét cái bản sắc của « tình mẹ Việt
Nam » qua chuyện Hoàng Sầm do tiền bối Lãng Nhân kể lại
trong tập « Giai thoại Làng Nho »
Thời
Mạc Đăng Dung. Nguyễn doãn Dịch làm tới chức thượng
thư, cáo lão về trí sĩ. Theo lệ, quan địa phương các
xã cho dân phu đi đón rước. Hoàng Sầm, nhà nghèo, mồ
côi cha, sinh sống bằng nghề cày thuê cuốc mướn, là
dân phu « được » chỉ định việc khiêng võng
cho cô gái út của quan Thượng.
« Trong
lúc khiêng phải gò lưng rụt cổ, Sầm vô tình nhìn vào
trong võng, thấy tiểu thư là một giai nhân kiều diễm,
lòng thấy nao nao... Khi đám rước về tới làng, quan
thượng cho mọi người giải tán, Sầm lủi thủi về
nhà, nỗi riêng tự dưng canh cánh. Rồi từ đó biếng ăn
mất ngủ, chẳng bao lâu đã phải nằm liệt giường.
Bà
mẹ thấy con ốm nặng tưởng bị ma làm nên sắm lễ
cúng giải nhưng bệnh tình Sầm không thuyên giảm chút
nào. Bà mẹ rất lấy làm lo. Sầm bèn thú thực là vì
tương tư cô con gái quan Thương mà thành bệnh, chỉ có
làm thế nào lấy được cô ấy thì mới mong khỏi.
Nghe
sự lạ lùng, nghĩ con nói mê, bà mẹ lúc đầu còn ừ ào
cho qua chuyện, nhưng sau đó, luôn mấy hôm, hễ mở mắt
lúc nào, Sầm lại hỏi mẹ xem đã đem trầu cau đi chưa.
Thấy mẹ nấn ná mãi, Sầm liền vùng dậy, trèo lên cây
cau, cắt một buồng đem xuống, khẩn khoản xin mẹ đưa
sang nhà quan Thượng dạm hỏi.
-
Con ơi, đũa mốc chực chòi mâm son, không được đâu,
chẳng bõ mua cười vói làng xóm.
Bà
mẹ kiếm lời an ủi thêm nhưng Sầm vẫn nằng nặc nài
nỉ :
-
Việc vợ chồng là hệ trọng, mẹ đi thì mới xong được.
Con
tin tưởng thế
nào quan Thượng cũng ưng cho.
Vừa
thương con, vừa thực thà,
bà cụ phải chiều lòng, kệ nệ tay xách buồng cau sang
nhà quan Thượng. Tới nơi, cứ đứng rụt rè ở ngoài
cổng suốt buổi không dám tiến bước. Mãi quá trưa,
người nhà thấy lạ chạy ra hỏi, bà mới ấp úng nói
là có việc xin trình. Cụ Thượng cho gọi vào. Bà đặt
buồng cau trên án, vái chào và ngập ngừng kể rõ nguồn
cơn :
-
Chúng tôi phận hèn, khi nào dám làm chuyện vượt bực
như thế này. Chỉ vì chồng
không may mất sớm,
được một mụn con, nay nó
lại dở hơi.
Nhưng
thương quá phải chiều ý,
xin Cụ-Lớn soi xét.
Tưởng
thế nào quan Thương cũng quở mắng,
không ngờ nghe xong, quan lại vui vẻ nói :
-
Không hề chi. Con gái ta gả cho con trai bà cũng đưọc
nhưng cốt nhất con bà phải là người có học. Vậy bà
hãy dẫn nó sang đây để ta coi xem thế nào đã.
Bà
cụ vái tạ lui về. Hôm sau đưa Sầm sang. Ngồi trên sập
trong mành trông ra, thấy Sầm mặc áo ngắn, đóng khố,
người đen xấu song hai mắt sáng như sao, lại ra vẻ hiên
ngang, cụ thượng có thiện cảm ngay. Nhưng đến khi hỏi
đến sức học thì chữ nhất Sầm cũng chưa biết. Cụ
Thượng liền bảo :
-
Con gái một quan đại thần khó có thể sánh đôi cùng
một tên dốt nát. Vậy anh hãy về, cố gắng học tập,
lập được công danh rồi trở lại đây ta sẽ chu toàn.
Sầm
sụp lạy thưa « Kính vâng lời dạy ».
Sầm
hết lòng học tập, ba năm sau đỗ thủ khoa kỳ Thi Hương,
đến khoa Mậu Tuất (1538) đỗ Thám Hoa (mới 27 tuổi).
Quan Thượng, như
đã hứa,
chấp nhận Sầm làm con rể ».
Ở
đây, thiết tưởng không phải chỗ để bàn về cái
« siêu đẳng tuyệt cú » của áng văn này của
vị tiền bối thâm nho Lãng Nhân. Với câu chuyện Hoàng
Sầm, kỹ thuật diễn đạt tinh hoa của Việt Nho quả
thật là xuất sắc khó có người sánh kịp. Chỉ cần
mấy giòng nhận định ngắn gọn về « đầu óc »
của bà mẹ và mấy câu đối đáp giữa một « người
mẹ » và một « người cha », vị túc nho Lãng
Nhân đã giải cho chúng ta hiểu được cái uyên thâm của
đạo lý Việt Nam. Trước cái « tin
tưởng »
của con mình (Hoàng Sầm tin rằng việc được chỉ định
khiêng võng cho « nàng » tiểu thư là duyên số
đã đưa hai sinh linh lại gần nhau, là sợi tơ hồng của
ông Tơ bà Nguyệt trói buộc hai con người với nhau), bà
mẹ « vừa
thương con, vừa thực thà »
chỉ biết làm
theo
đòi hỏi của nó. Câu nói để bộc bạch tình thương
con « thương
quá phải chiều ý »
của người-mẹ (bà mẹ quê thường dân) làm cho người-cha
(vị thượng thư) xúc động. Ông rất cảm kích bởi cái
hoàn cảnh « chồng
không may mất sớm, nó lại dở hơi » của
người đàn bà tầm thường kia. Bà chính là người mẹ
Việt Nam biết hành động theo nghĩa cương thường « phu
tử tòng tử, chồng chết theo con » của Việt Nho.
Chữ tòng của
bà có cái ý nghĩa đơn thuần chất phác làm
theo
« tiếng nói của tình mẹ thương con » hay nói
cho rắc rối hơn, làm
theo
« tiếng gọi của lương tâm ».
Về
phần bà-mẹ đã vậy, còn về phía ông-con Hoàng Sầm thì
sao? Trong cái « nghĩa mẹ » Việt Nam, có « lòng
biết ơn mẹ » của người con. Đấy
là tình nghĩa Việt Nam. Việt
Nam ta luôn luôn ghép
tình và
nghĩa với
nhau. Tất cả đạo lý, đạo đức Việt Nam được xây
dựng trên hai nguyên tắc « tình » và « nghĩa »
này. Cho nên Hoàng Sầm, vì thương mẹ đã không sợ « mua
cười với làng xóm »
hoặc « quan
Thượng quở mắng »,
« hết
lòng học tập »
ba năm sau đỗ thủ khoa kỳ thi cử nhân (thi hương), bảy
năm sau đỗ thám hoa (thi hội).
Nhưng
cái đẹp, cái hay của bài này vẫn chưa nói lên được
trọn vẹn, sâu sắc « tình mẹ con » thuần túy,
chính thống Việt Nam bằng bài hát dân gian « Con cò
mà đi ăn đêm ». Bài ca dao đã được đem giảng dạy
cho lớp tuổi đồng ấu, trong quyển Quốc văn Giáo khoa
thư để gọi là vỡ lòng, khai trí cho tuổi ấu thơ. Bài
ấy vỏn vẹn có mấy câu này :
Con
cò
mà đi
ăn đêm
Đậu
phải cành
mềm lộn cổ
xuống ao
« Ông
ơi, Ông
vớt
tôi nao
Tôi
có lòng
nào
ông hãy xáo
măng
Có
xáo thì xáo nước
trong
Đừng
xáo nước
đục đau
lòng cò con.
Về
phương diện văn chương, tưởng không có bài thơ lục
bát nào tuyệt hảo đến vậy. Lời đã đẹp mà ý thì
quá hay vì nó vừa thi vị, vừa chất chứa đầy đủ ý
nghĩa đạo đức, triết lý cổ truyền Việt Nam. Người
đàn bà đơn côi (ở đây được biểu tượng bằng hình
ảnh « con cò ») trong cái tâm cảnh phải thay
chồng nuôi con, giữa những hệ lụy, gian truân, thử
thách của cuộc đời (trong bài này được tóm gọn
trong ba chữ « đi ăn đêm » gợi lên trong tâm
trí người nghe lắm xót xa, bi thảm) được đem dùng làm
tiền đề. Nếu không may, số phận run rủi, xô đẩy Bà
rơi xuống hố lầm lỗi – xa rời nghĩa mẹ - thì Bà sẽ
gọi Ông (Trời) giải cứu. Giải nỗi oan khiên, cứu khỏi
ô nhục. Bà sẵn sàng chịu mọi sự trừng phạt - dù sự
lỗi lầm mà bà đã phạm phải là do sự yếu mềm tự
nhiên hoặc vì hoàn cảnh trớ trêu - nhưng Bà xin Ông
(Trời) hãy thương xót đàn con của Bà. Thân của Bà
không đáng kể, chỉ có đàn con của Bà là quan trọng.
Đấy
là nghĩa
mẹ.
Nó « như nước trong nguồn chảy ra » mãi
mãi, vô tận, không lúc nào vơi cạn, không bao giờ bị
một trở ngại nào ngăn chặn ; « nước » ấy
là « nước mắt chảy xuôi xuống » của các bậc
mẹ cha ; nước ấy vừa là nguồn sống tinh thần bất
diệt kết nối người-mẹ với người-con, vừa là mối
tình cảm trong suốt, đậm đà, triền miên nhất giữa
hai con-người. Đấy là tình
mẹ con
Việt Nam, thứ tình cảm thiêng liêng trói buộc người
phụ nữ Việt Nam vào cái sinh linh mà mình đã chịu trách
nhiệm nuôi nấng sau khi đã đưa nó vào cuộc sống giữa
Trời.
« Nghĩa
mẹ » ấy được nuôi dưỡng từ lúc mầm sống của
người con bắt đầu sinh động cho đến khi đứa con đã
thành nhân. Nhiệm vụ thiêng liêng « chín tháng mười
ngày mang nặng đẻ đau » phải được chu toàn vì
« nghĩa mẹ» phải được thể hiện bằng sự ước
muốn « mẹ tròn con vuông » và được biểu lộ
bằng những qui luật của việc thai giáo :
Khi
thai mới có, mẹ phải giữ giang
Ăn
chớ ăn phàm, nói chớ nói tục
Sách
hay mẹ đọc, truyện hay mẹ xem...
Ngoài
sự tâm niệm ấy, trong mọi sinh hoạt hằng ngày, bà-mẹ
cũng phải nhớ nằm lòng bổn phận của mình đối
với cái bào thai :
Chớ
vin cao cũng đừng mang nặng...
Đừng
ăn đồ cay đắng canh riêu
Đừng
ăn ít, chớ ăn nhiều
Nuôi
từ trong dạ khỏi điều lo sau...
Nhưng
chưa đủ. Khi hình ảnh người-con đã hiện thực, « nghĩa
mẹ » còn nặng nề hơn :
Con
thơ dại sớm hôm săn sóc
Cặn
kẽ từng sợi tóc đường tơ...
Nuôi
con rút ruột con tằm
Ấp
ôm bú mớm tháng ngày đầy vơi
Nghĩ
đến cái « nghĩa mẹ » bao la, cao dày như vậy, tất
nhiên người–con Việt Nam phải tự nguyện « thờ
Mẹ kính Cha » để tròn « đạo con ».
Tiếp
theo, để làm sáng tỏ ý nghĩa chữ « Mẹ » trong tâm
linh người Việt, xin được bàn rộng thêm.
Ý
thức « Mẹ » gọi lên nghĩa vụ sinh sản của
người-nữ để tiếp nối giòng giống của Sự Vật và
Con Người. Chữ Mẹ được nhắc đến trong bất cứ tín
ngưỡng nào :
-
Thần đạo Nhật tôn vinh Thái dương thần nữ để củng
cố lòng tự hào dân tộc
-
vũ trụ quan của Tàu dùng bà Nữ Oa « đội đá vá
trời » để nói đến vai trò người-nữ bên cạnh
bào huynh Phục Hi trong công cuộc tạo dựng giang sơn, cơ
đồ
-
Ấn độ có Nữ thần Shiva chủ động việc sinh hóa của
con-người
-
Ai cập có bà Isis (có vùng gọi là Osiris hoặc Seth)
-
phương Tây có Đức Mẹ Maria v.v.
Tất
cả các tín ngưỡng ấy đều muốn xác định nguồn gốc
và sự sinh sản của giống người bằng hình ảnh của
Người-Mẹ.
Đức
Hồng-y de Cabrières nhận định rằng : « Cái nôi
đích thực của Con-Người là trái tim của Bà-Mẹ -
le
vrai berceau de l’Homme, c’est le coeur de la Mère ».
Trong Đạo giáo, Lão-tử cũng xem Đạo (nguồn gốc của
Sự Vật) là huyền
tẫn, người-nữ
tạo sinh mầu nhiệm.
Về
tâm linh, Việt Nam ta cũng nghĩ gần như vậy. Chữ « Mẹ »
được đem vào tâm linh bằng huyền thoại Bà Âu-Cơ. Bà
là Tiên, Bà là bạn đời, bạn đường của Lạc Long
quân (?), điều ấy không quan trọng. Điều cần hiểu,
cần nhớ là Bà Âu Cơ « sinh ra một bọc có trăm
trứng ». Trăm trứng ấy đến đời bây giờ sinh sôi
ra thành cả trăm triệu người. Trăm trứng ấy nằm trong
một cái bọc, cho nên tất cả người Việt chúng ta xem
nhau là « đồng bào ». Huyền thoại Bà Âu Cơ
nhắc nhở cho chúng ta nhớ rằng dân tộc Việt có một
Bà Mẹ. Bà Âu Cơ là Mẹ Việt Nam, là quốc mẫu. Tư duy
cận đại đã truy xét nhân dạng đích thực của Bà và
Bà có thể được đứng vào hàng khai quốc công thần
của dân tộc Việt Nam.
Nhưng
vấn đề đặt ra trong bài này không hẳn như vậy. Chúng
ta đang nghiệm xét « tình mẹ con ». Vậy chữ Mẹ
trong tâm lý người Việt có ý nghĩa gì ?
Hình
ảnh của Bà Âu Cơ với danh hiệu « Mẹ Việt Nam »
trong con tim, trong tâm hồn của người Việt Nam biểu
tượng cho cái gì, cho việc gì ? Như trên đã nói :
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Nghĩa mẹ là lý đương nhiên hoàn toàn thuận hợp với
Đạo Trời. Nếu ý thức Lão-giáo xem Cội Nguồn của Sự
Sống (Đạo = con đường = sự sinh biến của sự vật)
là huyền tẫn, trong khi văn chương Khổng-giáo gọi bà-mẹ
là Từ Mẫu và lý thuyết Phật giáo tôn Đức Phật Quan
Âm lên hàng một Đức Mẹ Từ Bi Cứu Khổ Cứu Nạn thì
giữa vùng tâm linh, trong tâm tưởng của người Việt
Nam, chữ « Mẹ » được nói đến một cách
thường xuyên, được quyện vào từng câu ngạn ngữ,
từng lời ca dao, từng bài đồng dao dưới dạng « nghĩa
mẹ ».
Và
trong tinh thần này, « nghĩa mẹ » trở thành vấn
đề « tình mẹ con ». Tình mẹ con là một thứ
tình cảm thiêng liêng ràng buộc, gắn bó bà-mẹ vào
người-con. Nghĩa mẹ là vấn đề nhiệm
vụ của người-mẹ đối
với cái sinh linh mà mình có trách nhiệm đưa vào cuộc
sống giữa Trời, cho nên nghĩa mẹ đặt
vấn đề
tiếng
gọi lương tâm của
người-con.
Do
đấy ca dao Việt Nam hát :
Một
lòng « thờ mẹ » kính cha
Cho
tròn chữ
hi ếu mới l à đạo con
Do
đấy
đạo lý của ta xác định rằng cái « nghĩa mẹ »
nó vừa bao trùm trọn khắp đời sống của ta vừa đưa
ta về với đạo Trời huyền nhiệm.
Ngoài
ra, hơn
nữa những chữ thờ
mẹ kính cha
và đạo
con
còn làm chúng ta liên tưởng đến Mẹ Việt Nam, đến vị
Quốc tổ Hùng vương,
đến
Đất Nước Việt Nam.
Vậy
đối với Mẹ Việt Nam, ta có nên tỏ lòng tôn thờ
không ? Đối với Tổ quốc Việt Nam, ta cần phải
tôn quí không? Đối với giống giòng của ta, ta có nên
trân trọng không? Câu
trả lời có sẵn trong lòng, trong tâm khảm của bất cứ
người Việt Nam nào còn muốn tôn vinh giòng giống của
mình.
Belleville,
Paris tiết mãn thu
13-12-2004