Nghìn đêm thao thức
THI
HỌA SĨ VŨ HỐI CON NGƯỜI VÀ TÁC PHẨM
Đỗ
Bình
Tâm hồn con người là một thế giới mênh mông, muôn màu, đầy bí ẩn. Đối với người nghệ sĩ sự đa cảm càng bén nhạy, một thoáng cảm xúc về ngoại cảnh cũng đủ biến hiện thực thành ý niệm khởi đầu cho một tác phẩm. Nếu hội họa là nghệ thuật của đường nét, ánh sáng và màu sắc, nhạc là nghệ thuật của âm thanh, và thơ là nghệ thuật của lời, thì nghệ thuật là tố chất sáng tạo. Từ thời cổ đại đến nay về hình thức, cấu trúc thi ca đã có nhiều thay đổi, nhưng giá trị đính thực của thơ vẫn hướng về chân thiện mỹ. Từ ngàn xưa người Việt đã biết vẽ tranh, nặn tượng, điêu khắc, ngành mỹ thuật mang tính dân gian, trang trí. Nhhững loại hình thể đó truyền lại nhau theo lối thủ công nghiệp. Tranh Đông Hồ, tranh hàng Trống Hà Nội, ngành điêu khắc, đúc tượng, các đồ thờ tự bằng sơn mài chỉ «cha truyền, con nối» không có trường sở chính thức để nghiên cứu học hỏi về mỹ thuật. “ Theo những tài liệu còn lưu trữ ở thư viện Paris. Lịch sử nghệ thuật tạo hình Việt Nam thật sự khởi sắc từ khi có trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (L’École Supérieure Des Beaux -arts de l’Indochine). Trường được thành lập ở Hà Nội năm 1925 do họa sĩ Victor Tardieu một người Pháp làm hiệu trưởng suốt 12 năm. Trường đã được sự cộng tác đắc lực của họa sĩ Joseph Imguimberty giảng dạy từ năm1925cho đến khi bị giải thể 1945 (vì chiến tranh). Họa sĩ Victor Tardieu thuộc Trường phái Cổ điển cuối thế kỷ 19, ông từng là bạn học với danh họa Henri Matisse, Raoult. Họa sĩ Joseph Imguimberty tốt nghiệp trường Trang Trí Quốc Gia Pháp, ông yêu đất nước Việt Nam nên có nhiều họa phẩm sơn dầu rất nhập thần về phong cảnh đồng quê Việt.
Họa Victor Tardieu và Joseph Imguimberty là hai họa sĩ bậc thày đã hướng dẫn các sinh viên Việt Nam làm quen với kỹ thuật hội họa phương Tây, biết những nét căn bản của Trường phái Cổ điển. Với những kiến thức được học hỏi bài bản, sau khi tốt nghiệp, các họa sĩ có thể tự chọn cho mình một trường phái khác, một con đường riêng : tân cổ điển, ấn tượng, lập thể, trừu tượng, siêu thực, nhưng vẫn phát huy truyền thống nghệ thuật của nước nhà như lụa và sơn mài. Từ đó ngành MỹThuật của Việt Nam mới có những tên tuởi lớn :
Tô Ngọc Văn, Nam Sơn Nguyễn Vạn Thọ, Lê Phổ, Nguyễn Phan Chánh, Mai Trung Thứ, Công Văn Chung, Đỗ Đức Thuận, Vũ Cao Đàm, Lê Thị Lựu, Thạch Lam, Nguyễn Tường Lân, Phạm Hậu, Nguyễn Khang, Nguyễn Đỗ Cung, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Cát Tường(người vẽ áo dài kiểu Le Mur), Lưu Văn Sìn, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Thị Nhung, Nguyễn Văn Tỵ, Trịnh Hữu Ngọc, Hoàng Lập Ngôn, Nguyễn Dung, Nguyễn Tiến Chung, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Đức Nùng, Dương Hướng Minh, Nguyễn Sĩ Ngọc, Trần Đình Thọ, Huỳnh Văn Thuận, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Trọng Hợp, Phan Tại, Nguyễn Sáng, Huỳnh Văn Gấm, Tạ Khúc Bình, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Phan Thông, Lê Thanh Đức, Mai Văn Hiến, Trần Duy, Phan Kế An, Dương Bích Liên, Nguyễn Kim Đồng, Văn Cao, Văn Giáo, Lê Quốc Lộc, Phạm Viết Song, Tạ Tỵ, Phạm Đăng Trí”….
Hành trình đi tìm nghệ thuật là bước vào con đường vinh quang nhưng đầy gian nan khó khăn, người nghệ sĩ phải tự mình tìm lối đi riêng. Từ ngàn xưa «Cầm , Kỳ, Thi , Họa » đánh đàn, đánh cờ, ngâm thơ, vẽ tranh là bốn cái thú của kẻ tao nhã, nhưng biết đàn, làm thơ và vẽ tranh chưa hẳn là nghệ sĩ. Trong làng văn nghệ những người đã có tác phẩm được ra mắt có thể chưa hẳn đã hay hơn những người có tác phẩm chưa trình làng. Gía trị đích thực của một tác phẩm không hẳn được công chúng hoan nghênh khi mới ra mắt, mà gía trị đích thực phải qua thử thách với thời gian và được công chúng yêu mến lưu truyền lâu dài. Đã từ lâu những nghệ sĩ vừa là thi sĩ vừa là họa sĩ mà mỗi lãnh vực đều mang dấu ấn, và được công chúng biết thì không nhiều. Có người do thiên phú khởi đầu con đường văn nghệ chỉ làm thơ và có những bài thơ xuất sắc, độc đáo nên được công nhận là thi sĩ, rồi sau đó mới học vẽ và miệt mài với cây cọ ; mảng màu để thành họa sĩ. Ngược lại có người đã là họa sĩ sau yêu thơ, nghiên cứu thơ, làm thơ, đắm đuối vì thơ thành thi sĩ. Đây là những người đam mê và am tường thấu đáo bài bản về hai bộ môn nghệ thuật. Cuối thế kỷ trước ở miền Nam nước ta, những nghệ sĩ có thi phẩm trình làng và tranh triển lãm không nhiều, họ được công nhận là thi họa sĩ : Nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc Oanh, thi họa sĩ Phạm Tăng, thi họa sĩ Mùi Qúy Bồng, thi họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật, thi họa sĩ Lưu Nguyễn Đạt, thi họa sĩ Huỳnh Ngọc Điệp, thi họa sĩ Bồng (Phạm Văn Thoại), hi họa sĩ Phạm Kế Viêm ( GS Phạm Kế viêm và GS Phạm Văn Thoại là thi họa sĩ có tài nhưng rất khiêm nhường, ít muốn trình bày tác phẩm của mình nên người đời biết hai ông ở lãnh vực dạy học)….vv..
Những nghệ sĩ khi ở trong nước đã là họa sĩ hoặc thi sĩ, ra hải ngoại sau năm 1975 đeo đuổi thêm nhành nghệ thuật khác : thi họa sĩ Vi Vi Võ Hùng Kiệt, (họa sĩ Vi Vi tốt nghiệp Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn, có nhiều tác phẩm tranh màu nước, sơn dầu nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975, và ở hải ngoại được giải thưởng cao qúy của chính phủ Canada với những bức tượng điêu khắc), thi họa sĩ Nguyễn Tư ở Úc, thi họa sĩ Diễm Châu Cát Đơn Sa ở Mỹ….vv….Ở Pháp, Paris nói riêng, những người theo ngành nghệ thuật tạo hình không nhiều, đây là đất của các danh họa quốc tế lâu đời. Muốn có tên trên tháp vàng đó ngoài tài năng xuất chúng, còn phải quen biết những danh họa có tầm vóc quốc gia, quốc tế, những tổ chức uy tín có thế lực tiền tài của người bản xứ đỡ đầu giới thiệu. Những họa sĩ VN dù có tài nhưng không đủ tài chánh và phương tiện làm những cuộc triển lãm lớn để quảng bá những tác phẩm của mình đến giới thưởng lãm qua những phương tiện truyền thông, truyền hình, báo chí,... vì thế họ đành chấp nhận sự chờ thời, và vẫn miệt mài theo đưổi con đường nghệ thuật.
Vào thế kỷ 19 khu nghệ sĩ Montparnasse và hiện nay là khu nghệ sĩ trên đồi Montmartre có biết bao nghệ sĩ có tài. Họ là những họa sĩ thuộc nhiều quốc tịch, trong đó có một số ít là người Việt. Cũng ở những nơi này đã có một số danh họa Pháp từng sống và hành nghề, sau gặp thời nổi danh tranh của họ được bán với gía tính bằng vàng. Những tác phẩm nằm trên những con đường nhỏ, những ngõ cụt bỗng tỏa sáng chuyển mình được nâng niu đưa vào trưng bày ở viện bảo tàng để người đời chiêm ngưỡng.
Những họa sĩ Việt thành danh ở Pháp có nhiều cuộc triển lãm và giải thưởng cao qúy, nay đã mất : Nguyễn Vạn Thọ, Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Điềm Phùng Thị, Dương Cẩm Chương, Vĩnh Ấn, Thái Tuấn, Minh Châu Thái Hạc Oanh, Phạm Tăng, René Loesch, Lê Bá Đảng, Anh Trần, Vũ Thái Hòa.
Những họa sĩ thành danh, còn sống, có nhiều cuộc triển lãm, có người dạy ở các trường Cao Đẳng Mỹ Thuật vùng Paris: GS Nguyễn Cầm, GS Lê Tài Điển, GS Đỗ Văn Bình, GS Lê Công Minh…..
Họa sĩ : Võ Hoài Nam, Nguyễn Đức Tăng, Hồng Loan, Vương Đình Thư, Nguyễn Minh, Hoàng Đình Tuyên, Nguyễn Long Diên, Oanh,(Phạm Hoàng Oanh, con thứ BS Phạm Khắc Hy cựu Đại Sứ đầu tiên VNCH tại Pháp), Duy Nga, trưởng nữ họa sĩ Duy Liêm (Tranh Sơn Mài Thành Lễ, bìa nhạc..), Phạm Trọng Chánh (Điêu khắc), Huỳnh Thanh Lý, Vương thu Thủy ( điêu khắc).
Những họa sĩ trung niên: Vũ Đình Lâm, Vũ (TrầnTrọng Vũ, con trai nhà thơ Trần Dần), Vũ Hòa, Ngọc Tuyết, Trang Thanh Trúc, Trúc Tiên, Julien Ngưyen Verhaeghe (TS Thẩm mỹ học, phê bình nghệ thuật), con trai trưởng nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Thanh&Mây Thu, học trò của Lê Tài Điển, Nguyễn Cầm.
Hồng Khôi là bút hiệu của Vũ Hối ngay từ năm 1957. Sau này có những bài thơ tác giả không lấy bút hiệu Hồng Khôi mà ký tên thật. Bài thơ «Men Chiều Cali » là bài thơ Vũ Hối đã lấy tên thật, và cho đăng trong tập tuyển 3 Cụm Hoa Tình Yêu, xuất bản năm 1997. Nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh và Vũ Hối ký tặng người viết ở Paris ngày 21 .06. 1997.
Bài thơ như sau :
« Vẽ cả trong tranh khung trời lộng gío
Vẽ cả men tình, một độ lên ngôi
Nâng niu ta vẽ cành hoa Nhân Ái
Những đóa hoa cười, nở mãi trên môi !
Nắn nót tình thơ, khung trời lộng gío
Mười ngón tay hoa, vướng nhạc bỗng trầm…
Ta về đâu ướp lạnh miền Đông Bắc
Nhớ Cali, từng vạt nắng hanh vàng
E ấp hành trang : men chiều kỷ niệm
Phong kín gửi người : nỗi chứa chan !
Vẽ người thương, giữa khung trời lộng gío,
Vẽ mình ta, ngồi đếm nỗi cô liêu
Vẽ cánh chim rừng, một trời lạc xứ
Cali ơi ! Xin gởi nồng ấm men chiều !...»
Tác giả đã diễn tả nỗi lòng mình, một kẻ tha hương tạm dung nơi miền Đông Bắc Mỹ lạnh lẽo nhưng chan chứa tình người. Ở đó nhà thơ thèm nắng ấm Cli để sưởi nỗi nhớ về một quê hương xa ngàn dặm. Chất họa trong con người thi sĩ qua hình ảnh trong câu : «Vẽ cánh chim rừng, một thời lạc xứ », đây không phải là ngôn ngữ hình tượng của hội họa, nhưng ngôn ngữ mang chất ẩn dụ : để diễn tả những thân phận tha hương với nỗi niềm cô đơn. Nhưng trong câu : «Khung trời lộng gío » có những hình tượng, thơ và họa đều có thể vẽ và tả được. Nhưng có câu : «Vẽ cả men tình một độ lên ngôi» chỉ có thơ mới diễn tả được, mà những màu sắc và đường nét của hội họa không thể vẽ được ! Thơ Vũ Hối nhẹ nhàng, tha thiết, đượm chất nhân ái. Nhà thơ không mang thù hận vào thơ dù đã mất mát, trải qua nhiều năm tháng trong ngục tù CS, và để lại nơi chốn đọa đày đó một phần ánh sáng ! Vận nước thay đổi, lòng người gian dối, hiểm ác, đối xử nhau nghiệt ngã, thi sĩ vẫn gượng cười, vẫn giữ niềm tin hướng về chân thiện mỹ. Bài thơ lục bát :
Nửa
« Đời ta nửa tỉnh, nửa say
Nửa đen, nửa trắng, nửa ngày, nửa đêm
Nửa vui với cảnh ưu phiền
Nửa sông cồn cát, nửa triền núi cao
Nửa thương, nửa nhớ, nghẹn ngào
Nửa cười tha thiết, nửa ngao ngán tình
Nửa hồn đau kiếp nhân sinh
Chênh vênh nửa cuộc hành trình bể dâu
Chập chờn nửa giấc canh thâu
Cười say bên ngọn đèn dầu nửa khuya.»
Đó là tiếng lòng, nỗi u uất như tiếng thở dài về thân phận mình, thân phận của kiếp người, rộng lớn hơn là của đất nước mà một phần lãnh thổ đang bị lấn chiếm bởi ngoại xâm. Nhà thơ đã trút hết tâm tư dệt thành câu thơ buồn. Câu thơ mở đầu : «Nửa tỉnh, nửa say», tỉnh ở đây tác giả muốn nói đã nhận thức giá trị cao qúy của sự sống, nhà thơ đã trải qua biết bao khổ đau mà vẫn giữ tâm an lạc để làm thơ, vẽ tranh cho đời. Say trong thơ không phải say vì men rượu mà say vì đất nước. Nhà thơ nhìn quê hương như bức tranh mang gam màu buồn. Nơi ấy trong chốn phồn hoa với những tòa nhà cao tầng, những con đường rực sáng làm lóa mắt người hầu khỏa lấp, che dấu sự nghèo đói. Một ccon mắt còn lại nhìn đời nửa đen nửa trắng, phần con mắt mất ánh sáng là một hố đen sâu thẳm, nửa trắng là chút ánh sáng xót lại để nhìn màu sắc trên đời, nhất là với người họa sĩ, ánh sáng là nguồn sống, là niềm hy vọng. Hai câu thơ cuối :
«Chập chờn nửa giấc canh thâu
Cười say bên ngọn đèn dầu nửa khuya.»
Nhà thơ nặng tình với quê hương dù đang sống tha hương nhưng tâm hồn vẫn quanh quẩn nơi quê nhà. Đêm khuya thao thức bên ngọn đèn dầu nghĩ chuyện nước, thấy bất lực trước thời cuộc ! Nhà thơ cười để tự chế nhạo mình, chế nhạo những nhiễu nhương đảo điên sự đời. Say vì tê tái đau buồn cho mệnh nước vào mê cung chưa lối thoát. Dân nghèo quay quắt mưu sinh, lắm kẻ vì vật chất đã đánh mất lương tâm ! Người cầm quyền thì mải mê tranh đoạt quyền lực nên đã xa rời niềm đau, nỗi khốn cùng của dân đen khiến con người và đất nước đang mất dần bản sắc dân tộc ! Bài thơ dù viết đã lâu nhưng vẫn mang tính hiện thực về một xã hội Việt Nam bị tha hóa hôm nay.
Vũ Hối sinh ngày 22 tháng 11 năm 1932 tại Tam Kỳ, Quảng Nam. Là một nghệ sĩ đa tài, ông dáng người cao dong dỏng, bản tính đôn hậu dễ mến, hay cười, rất khiêm nhường và chân tình khi sử thế với bằng hữu, thêm có óc khôi hài thỉnh thoảng xen câu chuyện tếu làm mọi người vui. Là một tên tuổi lớn của nền văn học nghệ thuật nước nhà và quốc tế . Ông dược mời vẽ chân dung tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy, vẽ chân dung Đại tướng Creighton W. Abrams. Đã nhận Giải Khôi Nguyên Hội Họa Quốc Tế năm 1963 tại Hoa Kỳ. Sáng lập trường phái Luân Vũ Họa (Paintings In Motion) và Thư Họa (Handwriting Painting). Là nghệ sĩ Á Châu duy nhất được vinh danh về Sáng Tạo Nghệ Thuật cho thế giới, tại Atlanta - Hoa Kỳ ngày 5-11-1994.
Có Tên Trong :
- Văn Học Tự Điển thời Việt Nam Cộng Hòa
- Bách Khoa Tự Điển Larousse, bộ tự điển nổi danh nhất của Pháp và thế giới.
Tự Điển Danh Nhân Thế Giới, ấn hành tại Anh Quốc năm 1998 (Dictionary of International Biography 1998 – Cambridge – England).
- Được ghi trong “5000 Personalities of The World”, do American Biographical Institute ấn hành năm 2000. Là nhà Thư Họa Việt Nam duy nhất được ghi tên trong “Tuyển Tập Thư Họa Bậc Thầy Đông Phương”, ấn hành tại Tokyo – Nhật Bản năm 2006 (Volume 6International Editonal – Tokyo – Japan).
Ngoài danh tài về họa, Vũ Hối còn là một nhà thơ, nhà nhiếp ảnh. Ông khởi đầu sự nghiệp văn nghệ là làm thơ bút hiệu Hồng Khôi, đã xuất bản nhiều thi tập :
-Mùa Giao Cảm (Thơ) 1958. -Vần Thơ Màu Trắng (Thơ) – La Poésie de Couleur Blanche, được phiên dịch ra Anh và Pháp ngữ năm 1959 tại Sài Gòn.
- Những Dấu Chân Đi (Truyện Ngắn), xuất bản năm 1960. -Chiêm Bao Trở Giấc (Thơ), xuất bản năm 1997.
-Nghìn Thương Đất Mẹ (Thơ và Thư Họa), năm 1999….
Người đời quan niệm : «Thư Họa là nghệ thuật dùng bút lông viết chữ như vẽ để viết những câu thơ, câu đối, câu ca dao, hay ngạn ngữ, danh ngôn ..vv..... »
Trước Vũ Hối, có vài người cũng đem thư pháp vào Chữ Quốc Ngữ như Đông Hồ, Trụ Vũ, nhưng từ khi Vũ Hối sáng lập trường phái Luân Vũ Họa hay Hội Họa Sinh Động (Paintings In Motion Thư Họa mới lột tả hết sắc thái độc đáo đường nét của nghệ thuật viết chữ Việt như bức tranh rồng bay phượng múa.
Năm 1997, họa sĩ Vũ Hối sang Paris ra mắt thi phẩm : Chiêm Bao Trở Giấc, xuất bản năm 1997.
Tháng 9 năm 2002, họa sĩ Vũ Hối sang Paris ra mắt thi phẩm Mây Ngàn viết chung với thi sĩ Hoài Việt TS Nguyễn Văn Hướng, thi phẩm, khổ lớn, giấy màu, láng, rất đẹp do nhà xuất bản Anh Em ở NaUy in năm 2002.
Dịp này họa sĩ Vũ Hối mang tặng tôi bức tranh lụa : Đôi Chim Trên Cành Trúc, màu sắc, phong cảnh thật đẹp.
Trong cuốn tuyển tập đặc biệt : « Vũ Hối Nghệ Thuật Thư Họa », khổ lớn, giấy láng, hình màu, rất đẹp do nhà xuất bản EM T.MO S.J Magazine in năm 2007, người viết được thi họa sĩ chọn một tấm hình sinh hoạt ngày ra mắt sách và Thư Họa của Vũ Hối năm 1997 tại Paris, do CLB VH VN Paris tổ chức, để đưa vào tuyển tập cùng với nhiều tấm hình của sinh hoạt khác.
Tháng 6 năm 2008 người viết cùng nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên sang WDC ra mắt sách và CD nhạc, do, hội Văn Bút VN Hải Ngoại tổ chức. Dịp đó họa sĩ Vũ Hối đã tặng chúng tôi mỗi người một bức thư họa.
Vào năm 2009 họa sĩ Vũ Hối cùng một số anh chị em văn nghệ sĩ từ Mỹ, Canada, Âu Châu sang Paris sinh hoạt văn học nghệ thuật chủ đề : Thu Tao Ngộ. Sau buổi sinh hoạt, đêm đó, về nhà tôi hai người bạn thời thơ ấu Vũ Hối và Nguyễn Thùy tha hồ tâm sự. Sáng hôm sau trong lúc dùng điểm tâm, Vũ Hối nói :
«Mình với Nguyễn Thùy nói chuyện đến gần sáng.»
Nguyễn Thùy tiếp :
« Hai đứa chỉ nói về số bạn bè tan tác sau 1975.
Rồi vừa cười vừa hỏi:
« Nhớ lại chiều qua nơi phòng khánh tiết , một số đông các ông các bà, cả những cô trẻ vây quanh Vũ Hối xin 'thư họa', nhiều bà, nhiều cô xin như thế, Hối có 'thư sướng' không? »
Vũ Hối trả lời
: «mệt thấy mồ, sướng con mẹ gì' Dĩ nhiên, được mến mộ thì cũng vui lắm. Mà sao Thùy hỏi lạ vậy? »
Nguyễn Thùy trả lời:
«Tôi bảo có 'thư sướng' không chứ có bảo ông 'sướng' đâu?'. Ông có biết 'thư sướng là từ Hán Việt, theo Tự Điển Nguyễn Văn Khôn là 'khoan khoái, thoải mái, dễ chịu' chứ có phải 'sướng theo nghĩa thông thường đâu ».
Rồi Nguyễn Thùy hỏi tiếp:
« Có người nói 'thư họa là vẽ chữ', có như vậy không? Vũ Hối :
«Thì phần nào cũng có thể nói thế. Còn Thùy ngh ĩ sao?. »
Nguyễn Thùy trả lời:
«Rất phục Hối vì Hối là người đầu tiên đã đem chữ viết VN vào Hội họa. Thêm nữa, theo mình' Thư Họa là đem thơ vào họa'. Hối đã thư họa nhiều câu danh ngôn, nhiều câu thơ trong một số tác phẩm nổi tiếng và số thơ của nhiều người. Nhưng mình nhắc Hối chỉ thư họa những câu thơ nào sáng giá, hay đẹp chứ đừng vì cảm tình thư họa những câu thơ không hay đẹp gì khiến nhiều ngườit có thể nghĩ 'Hối đã khiến ngón thư họa của Hối trở nên tầm thường. »
Nguyễn Thùy quay sang tôi hỏi :
« Anh quan niệm thế nào là hội họa ?
Tôi vội xua tay trả lời :
« Anh phải hỏi anh Vũ Hối chứ sao lại hỏi tôi ?! »
Nguyễn Thùy tiếp :
« Thấy anh thích tranh lắm sao không có ý kiến ? »
Vì muốn chấm dứt câu chuyện để còn thời gian chuẩn bị cho cuộc du ngoạn, tôi nói :
« Theo tôi hội họa là những cảm xúc mạnh pha chút tưởng tượng của họa sĩ : đã kết hợp màu sắc, ánh sáng, bóng tối thể hiện qua những đường nét đậm nhạt để thành tác phẩm. Nhưng bức vẽ không phải là sự sao chép cho giống với hình mẫu ; mà phải sáng tạo để tác phẩm có nét riêng, nghĩa là phải độc đáo cả nội dung lẫn hình thức.»
Vũ Hối :
« Một quan niệm rất hội họa. »
Hai người cứ mải mê nói chuyện nên tôi dục các anh dùng nhanh để các bạn đến đón đi chơi, nhưng Nguyễn Thùy vẫn gân cổ lên nói :
« Mình chẳng biết gì về Hội Họa nhưng lại ưa nói quan điểm của mình về Hội Họa. Theo mình, Hội họa là thứ nghệ thuật tĩnh, nó sôi nổi trong trầm mặc, nó động trong bất động, nó càng đón nhận khinh bạc càng trở nên cao trọng, lâu dài. Mình đã viết như thế trong truyện 'Mậy Rồng', có tặng Hối, Hối thấy sao? »
Vũ Hối đáp:
« Có đọc. Truyện hay nhưng quan điểm Hội Họa nơi quyển đó, cao kỳ quá, khó ai thực hiện được. Mình chưa đủ khả năng để kết hợp cả hai lối 'công họa và tâm họa' như Thùy nói. Mà chắc cũng khó có người làm nổi. Mình già rồi, sức yếu nữa nên khó lòng nghiên cứu, học hỏi thêm để có thể có được nhiều tác phẩm sáng giá hơn »
Nguyễn Thùy :
« Nếu có thêm càng tốt. Nhưng với bao tác phẩm đã nổi tiếng, chừng ấy, mình thấy Hối đã đem lại cho Việt Nam một tiếng vang khá lớn cho nền Hôi Họa VN rồi. Mình mừng và vui hơn nữa là Hối là nguời Quãng Nam, đồng hương với mình, xứ Quãng được thêm một 'nhân tài' về Hội Họa thì cũng hãnh diện lắm chứ »
Tôi đành phải cắt ngang câu chuyện của các anh, và hẹn tối về sẽ để các anh tha hồ nói. Dùng điểm tâm vừa xong thì các bạn cũng vừa đến. Chúng tôi : Nhà báo Nguyễn Bảo Hưng, nhà biên khảo Nguyễn Thanh, nhà văn Nguyễn Thùy, họa sĩ Vũ Hối và tôi cùng đi Giverny thăm viện bảo tàng của danh họa Claude Monet cha đẻ trường phái ấn tượng.
Con đường từ Cergy đến làng Giverny chạy xuyên qua vùng Vexin français, bình nguyên phía Tây Bắc Paris, vùng đất phì nhiêu phủ màu xanh của đồng cỏ, ruộng lúa mì, cụm rừng... Sông ngòi chảy uốn khúc, xoáy mòn lớp đất vôi tạo nên một địa hình mấp mô gồm đầm lầy, thung lũng và đồi gò nối tiếp nhau. Kỳ vĩ hơn tất cả chính là dòng sông Seine, cửa ngõ thông thương từ Paris ra biển cả. Dòng sông chảy ngoằn ngoèo soi bóng hàng cây dương liểu, sườn dốc cheo leo, những tòa dinh thự lâu đài...
Từ xa xưa nơi đây đã in dấu chân từng đoàn quân La Mã. Những phế tích do tàn phá của chiến tranh suốt nhiều thế kỷ, chứng tỏ từ lâu dân cư đã sống gắn bó với mảnh đất và dòng sông.- Do cảnh sắc độc đáo cùng với môi trường sinh vật phong phú, một khu bảo tồn thiên nhiên được thành lập tại vùng này vào năm 1995 (Parc naturel régional du Vexin français).
Thỉnh thoảng dọc bên vệ đường hay giữa cánh đồng ta còn gặp những cây thập giá bằng đá vôi chạm trổ, bốn nhánh hình tam giác, người xưa dùng làm cột mốc ranh giới giữa các xứ đạo, các đất đai sở hữu. Ngày nay di sản nông thôn này trở thành biểu tượng cho vùng Vexin français. Làng Giverny nằm dọc theo sườn phía nam dãy đồi, bên cạnh hợp lưu nơi sông Epte đổ vào sông Seine.Trong lúc anh Thanh mải mê lái xe tìm đường, anh Hưng vui vẻ cất tiếng :« Anh Vũ Hối từ Mỹ sang, lại là họa sĩ, hôm nay được bọn mình dẫn đi thăm Giverny là trúng tủ rồi đấy. » Tuy không phải là họa sĩ, nhưng thích tìm hiểu về hội họa, đặc biệt là trường phái ấn tượng, anh Nguyễn Bảo Hưng giải thích: « Anh phải biết, với người Mỹ, Giverny được coi là cái nôi của hội họa ấn tượng và là chốn hành hương của hầu hết các đoàn du khách Mỹ viếng thăm Pháp.Thực ra Claude Monet không phải là người sáng lập ra trường phái ấn tượng. Sở dĩ tên tuổi ông được gắn liền với hội họa ấn tượng, ấy là nhờ nhà phê bình Loui Leroy, trong một bài báo, đã dùng từ impressionniste để nói lên cảm nhận của mình trước bức họa « Rạng Đông » (Soleil levant,1972) được Claude Monet đem ra trình làng tại cuộc triển lãm do ông cùng một nhóm họa sĩ đứng ra tổ chức riêng vào năm 1974 tại Paris. Thế là từImpressionnisme được ghi vào sổ bộ đời hội họa từ đấy để nói về Trường phái Ấn Tượng(*). Còn nói rằng Giverny là cái nôi của hội họa ấn tượng cũng không hẳn đúng. Bởi vì tất cả những bức tranh mang đường nét ấn tượng hầu hết đều được các họa sĩ theo trường phái này như Manet, Sisley, Pissarro, Renoir v.v… thực hiện trong các thập niên 1860, 1870 và tại nhiều địa điểm không gian khác nhau.Chỉ từ sau 1883 Monet mới tới trú ngụ tại Giverny thuộc hạt Eure không cách thành phố Rouen bao xa. Nhưng vì ngôi nhà xinh xắn với khu vườn phô bày đủ mọi sắc hoa, và đặc biệt cái đầm hoa súng (l’étang des nénuphars) với cây cầu kiểu nhật (le pont japonais) duyên dáng được dùng làm đề tài cho nhiều bức tranh ngoạn mục đã khiến địa danh này trở thành đối tượng viếng thăm của khách yêu chuộng hội họa trên toàn thế giới. »
Câu chuyện tới đây thì cũng là lúc anh Thanh bắt đầu lái xe đi vào thành phố Auvers Sur Oise. Lần theo dấu vết xưa qua những phiến đá tường đã phủ màu thời gian, chiều xuống ánh nắng dần phai nhìn con phố cổ bên dòng sông Oise trầm mặc hơn. Anh Thanh bỗng dừng xe trên con đường chính, ngay trước quán trọ Ravoux, trạm dừng chân chót của Van Gogh. Chúng tôi ngẩn ngơ trước ngôi nhà trọ nay đã được chỉnh trang lại bộ mặt trông sáng sủa hơn, nhưng trong lòng không khỏi bồi hồi nghĩ tới tới hai tháng cuối đời của nhà danh họa này trên căn gác xép chạm mái. Còn đang trầm ngâm suy tưởng bỗng nghe tiếng anh Thanh kêu gọi qua công viên bên cạnh nơi có bức tượng đồng Van Gogh do Zadkine sáng tác. Sau khi chụp một tấm chung lưu niệm, đứng cạnh tượng Vũ Hối thở dài than :
« Trông Van Gogh khốn khổ quá, như kẻ đi lang thang, bụi đời ! »
Nguyễn Thanh mở ống kính ngắm chụp, sau khi bấm máy liền góp ý:
« Van Gogh đã từng thố lộ: "Khi tôi càng xấu xí, già, ác độc và nghèo, tôi càng tìm cách chuộc lại những thất bại ấy bằng cách làm cho màu của tôi rực rỡ, cân đối, tỏa sáng". »
Từ khu nhà ga cũ đến ngôi giáo đường cổ, tất cả chúng tôi theo đường lên dốc khá quanh co, tìm đến ngôi nhà thờ nơi bìa làng. Van Gogh đã dừng chân nơi đây và họa bức tranh mặt ngoài hậu cung nhà thờ, diễn tả một kiến trúc không theo phép phối cảnh nhưng bằng những đường cong quẹo. Anh Vũ Hối đi tới đi lui trên dốc đá góc nhà thhờ, ngắm từng chi tiết như tìm cách đứng đúng chỗ Van Gogh đặt giá vẽ, rồi mới nâng máy lên thu hết hình ảnh vào ống kính. Từ ngôi nhà thờ theo con đường làng ra khỏi vòm cây phong là cánh đồng mênh mông hiu quạnh, nơi an nghỉ của danh họa Van Gogh và ngôi mộ bên cạnh là người em trai Théodore. Trong hoang vắng, đứng trước hai ngôi mộ quá đơn sơ của họa sĩ nghèo, mộ chỉ lấp mà không xây, bia được cuốn bằng thừng ! Đất Trời cũng cảm động, xót xa cho người họa sĩ tài hoa nên kết những loài hoa cỏ đầy màu sắc rực rỡ thành tấm thảm phủ lên ngôi mộ. Anh Vũ Hối và Nguyễn Thùy lần đầu đến thăm nên xúc động mạnh rướm lệ. Vũ Hối từ từ thu mình ngồi cạnh mộ Van Gogh, anh im lặng nhưng chắc hẳn lòng đang thổn thức ? Trên khuôn mặt buồn bã ấy có chút gì thương tiếc và ngưỡng mộ một danh tài hội họa thế giới bạc mệnh nằm trên cánh đồng hoang vu ! Sau khi thăm mộ Van Gogh và người em trai Théodore, chúng tôi đi thẳng ra cánh đồng trước mặt đến nơi đã ghi dấu kỷ niệm họa phẩm "Đồng Lúa Mì và Đàn Quạ". Đứng trước thiên nhiên, mường tượng lại bức tranh, chắc hẳn trong mỗi người chúng tôi đều có cảm nhận riêng về hình ảnh đầy bí ẩn : « Đàn quạ đen bay sà trên đồng lúa chín vàng dưới bầu trời màu xanh sẫm như báo hiệu cơn dông sắp đổ xuống ? »
Chúng tôi định đi tiếp vào thăm làng nhưng con đường đến đây chia làm ba ngã, biết chọn ngã nào? Anh Vũ Hối bảo:
" Van Gogh vẽ đường cho chúng ta nhưng không chỉ dẫn rõ ràng, vậy thì đi đâu cũng được".
Nguyễn Thanh bảo đường quẹo tay trái trở về nhà thờ. Anh Bảo Hưng khuyên nên đi thẳng, tất cả chúng tôi theo hướng đó.
Tối hôm đó về nhà, chúng tôi thức khuya nói chuyện. Nguyễn Thùy bảo Vũ Hối:
«Hai họa sĩ đều nổi tiếng nhưng một 'vừa nổi tiếng vừa nổi miếng' (ý nói có tiền, giàu) còn một thì 'vừa nổi tiếng vừa nổi điên', còn Vũ Hối thì nổi gì?»
Vũ Hối trả lời:
«chẳng nổi gì cả, đời quá nhiều bầm dập chỉ 'nổi chìm' thôi !»
Họa sĩ Vũ Hối là một nghệ sĩ tài hoa nhưng nhìều thăng trầm. Sự nổi tiếng về hội họa đã làm lu mờ phần nào mặt văn thơ, cho dù nhà thơ vẫn sáng tác đều, vẫn cho đời những vần thơ hay nhưng công chúng tìm đến anh qua hội họa.Tôi hỏi Vũ Hối :
« Giữa Thơ và Hội họa nếu phải chọn một anh chọn cái nào ? »
Vũ Hối :
« Mình xin chọn cả hai, nếu tách ra là chết (!)Vì Thư Trung Hữu Họa . »
Trước năm 1975 và đến bây giờ, họa sĩ Vũ Hối luôn luôn chân thành với tình bạn, ở trong hoàn cảnh nào, dù lúc thăng hay trầm con người đó vẫn thế, vẫn không xa cách với bạn. Bản tính hiền hòa đôn hậu và trung nghĩa đã được các bằng hữu rất qúy trọng. Họa sĩ Vũ Hối chọn một lối sống hòa nhã, an lạc, ông mê say văn học nghệ thuật, xem nhẹ vật chất mà chỉ trợng tình tngười. Ngoài những tác phẩm sơn dầu vẽ chân dung các yếu nhân, Vũ Hối còn vẽ những bức tranh sơn dầu khác ở các thể loại phong cảnh, ấn tượng, những tác phẩm đó đều thể hiện tấm lòng tha thiết của ông đối với quê hương, đất nước. Những tác phẩm: Cảnh Làng Quê, Con Trâu, Cầu Tre, Lũy Tre, Phố Cổ, Ven Sông, Quê Hương với dòng sông Thu Bồn, Tình Mẫu Tử …vv dù xa xăm nhưng vẫn ẩn trong tâm khảm. Tác phẩm Chim Bồ Câu đã nói lên sự khát khao tự do, sự yên bình, ước mơ của nhân loại.
Con đường văn nghệ của Vũ Hối mang hương thơm tình tự dân tộc nơi xứ người. Đã có biết bao người tiếp nối ông đi trên con đườngThư Họa. Điều làm cho ông hãnh diện và sung sướng là người con trai của ông là họa sĩ Vũ Quốc, một họa sĩ tài hoa chuyên về sơn dầu đã từng làm những cuộc triển lãm thành công. Rồi đây họa sĩ Vũ Quốc theo con đường văn nghệ của cha, thi họa sĩ Vũ Hối và của bác ruột là cố giáo sư, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học Vũ Ký ; gieo những bông hoa đẹp cho đời.
Paris 16.01.2017
Đỗ Bình