Giới
thiệu tác phẩm Chiến Tranh & Hòa Bình Việt Nam – Tập
2, của nhà văn Nguyễn Quang, do Amazon xuất bản.
“Gia
tài của Cộng sản để lại, đó là một giỏ rắn Trung
Hoa, một xã hội hỗn mang từ thượng tầng kiến trúc
đến hạ tầng cơ cấu, những con rắn Hán gian, Việt
gian ra vào hang trên khắp cả nước. Những con rắn nuốt
chửng lẫn nhau và phun nọc độc lên dân tộc đã cưu
mang nó”.
Quý
vị có thể mua trực tiếp tại Công ty Amazon theo các link
sau:
-------------------
Lời dẫn nhập vào
phần 2 của tác phẩm (Tập 2 gồm phần 2 & 3. Phần 3
viết về nạn nhân của các quan tham cộng sản ):
Những nẻo đường đến
địa ngục Việt Nam.
Câu chuyện triết học
–The story of philosophy, của Ông Bà Will Durant khi giới
thiệu vế Emmanuel Kant có viết: muốn trở thành triết
gia phải là một Kant tử. Với một nhà văn cũng vậy,
không phải thấy gì rồi vội viết ngay, song phải quan
sát kiểm nghiệm để từ những hiểu biết thường
nghiệm đến những giá trị phổ quát mới viết ra.
Địa ngục Việt Nam dễ
vào và dễ đọc, nó rất ý vị vì bên kia núi hãy còn
nhiều núi, câu chuyện không chỉ đơn thuần là những sự
kiện được ghi chép lại như chuyện kể về ‘con người
ăn cỏ, uống nước mương rãnh’, nằm trong nhà kỷ luật
‘vừa ăn vừa đi cầu trong một cái bát…’, nhai hết
chăn màn và nhai hoài thấy ngọt. Nhưng quả là hình ảnh
của một chế độ bạo tàn hiện lên bên sau những ngôn
từ đó. Không phải những gì nhà văn viết để cho chúng
ta xem, nhưng chính những gì được mời gọi chúng ta cùng
phán đoán, quyết định hành trình, dấn thân và hy vọng.
Từ địa ngục để thấy lại thiên đường đã mất, đó
là hạnh phúc gia đình, những giá trị của bao chân lý
cổ xưa, tiện nghi của nền văn minh hiện đại… mà
bỗng chốc trong cơn nổi loạn đã phá tan mọi thứ và
nhân loại sẽ còn sai lầm và nhầm lẫn nữa trong cái
giả của thứ phê bình lý trí thuần tuý dẫn đến hệ
lụy hiểu lầm nên sử dụng nhầm trên bình diện lý trí
thực hành. Chủ nghĩa Mác là học thuyết phê phán sự
vong thân của tư bản, nhưng dẫn đến bao nguỵ tín, tha
hoá… mà nhân loại trong đó có Việt Nam lãnh hậu quả.
Mở đầu câu chuyện địa
ngục với chương ‘Về đâu’, nếu đọc thoáng qua chỉ
là hình ảnh nhơ nhớp mất vệ sinh trong nhà kỷ luật,
nhưng đi sâu hơn đó là một đoạn văn viết lại Sách
Sáng Thế Ký từ Thiên Chúa dựng nên Trời và Đất trong
bảy ngày đêm và ngày nay có sự miêu tả việc tái tạo
tuần lễ đầu tiên dưới bàn tay của quỷ Satan.
Vốn văn ‘tải đạo’
nghĩa là mang theo sứ mệnh gồm những chân lý truyền
thống -old verities, hầu mở đường cho nhân loại cùng đi
về phía trước, nên đòi hỏi người viết phải có một
tri thức nhất định, nếu không muốn nói theo Kant đó là
một sự kiểm nghiệm để đạt đến tri thức tiên thiên
–connaissance apriori, nếu không chúng ta chỉ viết về
những chiếc đũa gãy trong hiện tượng khúc xạ nhưng
thật sự không có cái que nào bị cong như mắt thường
quan sát. Và cả sự thưởng ngoạn của độc giả sẽ
như nước chảy bè trôi, một thái độ dễ dãi với cả
người cầm bút và tha nhân.
Các chương ‘Thế
Gian Như Thị’ hay
‘Mẹ Không Cần
Vàng’ nói lên
tính thể của con người thể hiện trong cuộc sống nơi
bước đường cùng với những nếp gấp, ngả nghiêng của
các hữu thể tại thế mà mỗi cá nhân trong điều kiện
bình thường sẽ không nghĩ rằng tôi hiện hữu và sẽ
hành xử như vây: một vị trung tá trong trại tù đòi
phải chia cơm bằng cân tiểu ly mới công bình bên cạnh
nhiều con mắt dõi theo có hơn kém nhau hạt nào.
Chương ‘Ta
Là Kẻ Cứu Người’gợi
lên hình ảnh các tiên tri giả, nếu chúng ta có dịp tìm
hiểu Kinh Thánh qua sách Khải Huyền sẽ thấy đây là một
dấu chỉ để cảnh cáo hãy cùng nhau đi trên con đường
công chính.
Chương ‘Người
Tiều Phu’ đặc
sắc về sự ẩn dụ của lòng yêu nước với sự bạo
phỉnh, dối trá đưa con người sa lưới vào cái bẫy yêu
nước đến cái chết đau thương cho bao gia đình của cái
gọi ‘con đường giải phóng các dân tộc’ với chủ
nghĩa Mác Lê ‘Vùng vẫy, vùng vẫy…Đừng có dại nghe
con, chớ có tai mà cái gì cũng nghe, chớ có nghe mà không
phân biệt được tiếng nào cũng là tiến quốc. Yêu
nước, yêu nước… Đừng có dại nghe con. Quốc trong
tiếng Việt có nghĩa là nước, quốc gia. Ở đây nó mang
nghĩa bóng là kêu gọi lòng yêu nước và bao con chim đã
chết, sa lưới vì nghe theo tiếng gọi nhầm đàn.
Và với chương ‘Ta
Có Toàn Quyền’
nói lên một xã hội công dân trong chế độ Cộng sản
‘Tôi có toàn quyền trên vùng bán đảo này… Ở đây
không có nghị quyết, sắc luật, sắc lệnh hay Quốc hội
gì hết, nhưng mọi sự tốt đẹp…’ và trong sự giết
người nhưng bạo chúa vẫn luôn nguỵ tín của sự cứu
người’.
Chương ‘Adam & Eva’,
thân phận con người trong chế độ Cộng sản bị lột
trần hết trong một hệ thống tham ô mà ‘trẫm có chết
thì trạng cũng băng hà’ rồi đến thân phận người
trí thức qua lời của một anh kỹ sư trong cơn đói khát
đã nạo cái chảo bếp bị lủng, bị mang ra kiểm điểm
và anh nói lời của kẻ đường cùng đáng thương cho
thân phận con người: ‘Học nhiều để nạo vét thật
kỹ’. Và trong một chế độ duy vật tha hoá như vậy
chỉ có đồng tiền mới mang lại hy vọng cho ai đó,
nhưng hậu quả chính họ rước lấy cái bi thảm tiếp
theo, trở thành nạn nhân bị tước mất hết tiền tài
song sẽ không được gì cả.
Phiên toà XHCH và tiếng
kêu qua lời nói cuối cùng của các bị can đến LHQ về
tình trạng vi phạm nhân quyền tại VN, nhưng cả hai tổ
chức cũng chỉ là hình thức cho dù Hội Quốc Liên đến
LHQ vẫn là niềm mong ước từ tác phẩm ‘Về
Một Nền Hoà Bình Vĩnh Cửu’
của Kant. Nó vẫn chỉ là hàn lâm đến hàn lâm và nuôi
dưỡng hàn lâm.
Chương về ‘Khu
Tử Hình’ nơi
huyệt mộ của những nạn nhân còn sống. Chính nơi đây
trở thành một diễn đàn mà chúng ta có thể rút ra những
khía cạnh nhân bản gồm các quan điểm chính trị như:
tự do, chuyên chế, dân chủ cộng hoà, các học thuyết
triết học… những khát vọng cao cả thật sự của con
người trên một phần nào đó của hành tinh này ‘trong
khi đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, những người Cộng
sản kiệt sức và tự chôn lấy chính mình’. ‘Cái gốc
rễ của vấn đề là tỵ hiềm, lòng tham, hám danh lợi,
thiếu nhân ái… nên mới sinh sợ hãi’. Và theo những
tử tù sắp bị mang đi bắn ở đây ‘nước Mỹ sẽ
không bao giờ có bình yên, bởi vì có quá nhiều người
trông chờ ở họ’…Một nữ tử tù can tội giết
chồng, rất im lặng, thỉnh thoảng có ai hỏi thăm tha
thiết mới hé môi ‘ta tiếc chỉ giết được rất ít
đàn ông, chủng loại được gọi có linh hồn, còn giống
cái như ta bị cho là không có linh hồn’.
Và rồi tất cả đều
lưu chảy, hư vô lưu chảy hư vô.
Các nạn nhân bị đưa
đến các trại lao cải, con người bị đày đọa đến
chết khiến các tù nhân thường xuyên phải quyết định
chọn lựa giữa sống chết và thường là sự thất bại
với cái chết diễn ra thường xuyên với các cuộc bạo
loạn trốn trại không thành và bị bắn ngay tại chỗ dù
có đưa hai tay lên đầu hàng. Với những ai ở lại trong
sự chịu đựng thường đều mắc phải những trạng
huống tâm thần khác nhau của triệu chứng rồi đến hội
chứng loạn tâm thần bản thể. Tất cả các dạng tâm
thần được mô tả dưới ánh sáng của khoa tâm thần
học diễn dịch, với cách viết như các công án của
Thiền minh tỏ.
Từ ám ảnh đến hoang
tưởng, kể cả điên loạn tự tử, số còn sống sót
mãn hạn tù trở lại đời thường trong nổi kinh hoàng
với bao ám ảnh trước các hội chứng rối loạn tâm
thần: Nhà giam CS
nơi hoàn tất việc trả thù!
***
Người dân chỉ ước mơ
mong sao trên đất nước không còn thù hận vì ngay chính
những kẻ đi gieo mầm không hận thù có khi lại trở
thành kẻ thù của nhiều người. Kết thúc tác phẩm với
những dòng được viết từ Kinh Lạy Cha trong sự kêu gọi
con người hãy tự cứu mình, hãy cùng nhau cứu khổ cứu
nạn trong cảnh khổ. Đơn giản từ một chút triết học
cho thần học ‘Hãy tự cứu mình, Trời sẽ cứu mình’.
Lạy Con người tự thân
Con người. Nguyện danh Con người tỏa sáng. Nước Con
người trị đến: Ý Con người thể hiện như nguyên uỷ
vốn Thiện. Xin cho Con người hằng ngày dùng đủ. Và tha
thứ cho nhau như Con người đối xử với nhau cho ra Con
người. Chớ làm cho nhau sa chước cám dỗ, nhưng cùng
nhau cứu khổ, cứu nạn. Ước được như vậy.