Antony J. Blinken
Thời Trump: Mỹ sẽ ra sao
nếu không có ảnh hưởng?
Tháng
2 năm 1945, vào giai đoạn cuối Thế chiến II, Franklin D.
Roosevelt, Joseph Stalin và Winston Churchill đã họp tại
Yalta, một thị trấn nghỉ mát của người Nga ở Crimea,
để bàn cụ thể về tương lai của cuộc chiến và nền
hòa bình sau đó. Các nhà lãnh đạo đồng ý với
Roosevelt về một trật tự thời hậu chiến được thống
trị bởi “Bốn trụ cột”– Mỹ, Anh, Nga và Trung Quốc.
Roosevelt
chắc chắn rằng mình có thể thuyết phục được Stalin
thực hiện cam kết Yalta về duy trì an ninh khu vực và một
châu Âu thống nhất. Stalin lại có một tầm nhìn hoàn
toàn khác: thế giới được phân chia theo phạm vi ảnh
hưởng của các nước mạnh nhất. Dưới sự thống trị
của Liên Xô, bóng tối đã nhấn chìm Đông Âu trong suốt
45 năm.
Tổng
thống Harry Truman phải gánh trách nhiệm đối phó với
chủ nghĩa bành trướng Liên Xô. Ông đã xây dựng các
liên minh thời bình đầu tiên của Mỹ, bắt đầu ở Tây
Âu, sau đó ở châu Á. Mỹ đã dẫn đầu trong việc thiết
lập các chuẩn mực, quy tắc và các thể chế đại diện
cho trật tự quốc tế tự do, bao gồm Liên Hợp Quốc,
các thể chế tài chính quốc tế và Kế hoạch Marshall.
Trật
tự tự do mà Mỹ dẫn đầu ủng hộ một thế giới mở,
kết nối bằng dòng chảy tự do của con người, hàng
hóa, ý tưởng và nguồn vốn; một thế giới được căn
cứ vào các nguyên tắc về quyền tự quyết, chủ quyền
của các quốc gia và các quyền cơ bản cho công dân của
họ. Tư tưởng này thường không thành công ở Mỹ Latinh
và Đông Nam Á. Tuy nhiên, trật tự tự do mà Mỹ thiết
lập đã tạo nên sự thịnh vượng và duy trì hòa bình
giữa các cường quốc trong nhiều thập kỷ bất chấp
những căng thẳng dữ dội của Chiến tranh Lạnh.
Trật
tự thời hậu chiến mà Mỹ xây dựng hiện đang phải
đối mặt với những thách thức nghiêm trọng, bao gồm
cả thách thức từ các đối thủ trước đây. Tổng
thống Nga, Vladimir Putin, không phải là Stalin và Nga cũng
không còn là Liên Xô. Tuy nhiên ông Putin luôn tìm cách lấy
lại sức ảnh hưởng của Nga, đồng thời không tuân
theo trật tự quốc tế tự do dù nó thịnh hành trong suốt
giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Trung Quốc vẫn tập trung vào
sự ổn định bên trong quốc gia, nhưng trong bản đề
xuất “Mô hình mới về quan hệ giữa các cường quốc”,
nước này kiến nghị với Mỹ rằng Mỹ nên tập trung
vào phần phía Đông Thái Bình Dương và nên để cho Trung
Quốc đóng vai trò nổi trội trong nửa phía Tây của đại
dương này.
Các
đồng minh của Mỹ ở châu Âu và châu Á đang dồn sự
chú ý đến việc liệu chính quyền Donald Trump sẽ bác bỏ
hay ủng hộ sự tái xuất hiện của các khu vực ảnh
hưởng. Họ lo lắng vì trong chiến dịch tranh cử của
mình, ông Trump dường như đã ủng hộ sự thống trị
của các lãnh đạo độc tài và mong muốn hợp tác với
Putin. Ông Trump hầu như không lo ngại về việc tin tặc
Nga tấn công cuộc bầu cử hay việc Nga tấn công Ukraine.
Trump cho rằng NATO đã “lỗi thời” và Mỹ nên từ chối
nhiệm vụ “bảo vệ thế giới”. Ông Trump ví Nhật Bản
và Hàn Quốc (là những đồng minh lâu năm của Mỹ –
NBT) như những quốc gia dựa dẫm ngồi không hưởng lợi
và cho rằng những nước này nên tự chịu gánh nặng
kinh phí về quốc phòng và răn đe hạt nhân.
Trump
đã hứa sẽ rút khỏi hiệp định thương mại Đối tác
Xuyên Thái Bình Dương (TPP), nhường cho Trung Quốc quyền
lãnh đạo kinh tế và ảnh hưởng chiến lược ở châu
Á. Đối với nhiều người châu Âu và châu Á, những lời
tuyên bố này sẽ khiến thế giới trở thành nơi bị
thống trị bởi Nga và Trung Quốc cả về kinh tế lẫn
chính trị, trong khi Mỹ lui về tổ kén của mình.
Mỹ
không nên nhìn Nga và Trung Quốc qua lăng kính trò chơi có
tổng bằng không (nghĩa là lợi ích Trung Quốc hay Nga đạt
được sẽ bằng với thiệt hại của Mỹ phải gánh chịu
– NBT). Điều này có thể thấy thông qua việc chính
quyền Obama đã khôn khéo mở rộng các lĩnh vực hợp tác
với Bắc Kinh, từ Hiệp định Paris về biến đổi khí
hậu, việc đối phó với dịch bệnh Ebola, thỏa thuận
hạt nhân của Iran và vấn đề Triều Tiên tới các dự
án chung ở các nước đang phát triển. Mỹ cũng đã đàm
phán Hiệp ước START mới về cắt giảm vũ khí hạt nhân
và ủng hộ việc Nga gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO).
Tuy
nhiên, khi Nga hoặc Trung Quốc thách thức các nguyên tắc
của trật tự quốc tế tự do, Mỹ cần phải cứng rắn
với họ. Ở Ukraine, ông Putin đã tìm cách thay đổi biên
giới của nước láng giềng bằng vũ lực, đồng thời
từ chối quyền quyết định của công dân (Ukraine –
NBT) trong việc lựa chọn các quốc gia, các tổ chức hoặc
liên minh mà họ muốn liên kết. Đó là lý do vì sao sự
hỗ trợ của Mỹ dành cho Ukraine lại quan trọng.
Tương
tự như vậy, Mỹ cần cương quyết bảo vệ luật pháp
quốc tế ở Biển Đông. Tại đây, việc Trung Quốc yêu
sách chủ quyền đối với các vùng lãnh hải rộng lớn
cùng với việc xây dựng các căn quân sự trên các đảo
nhân tạo có nguy cơ phá hoại tự do hàng hải và tự do
thương mại, gây ảnh hưởng đến sự thịnh vượng của
Mỹ, đến hòa bình ổn định trong khu vực và quyền lợi
của các đồng minh mà Mỹ đã hứa che chở.
Một
thế giới bị phân chia vùng ảnh hưởng sẽ không thể
có hòa bình, ổn định và Mỹ cũng sẽ khó tránh khỏi
các tình huống xung đột. Những kẻ bá chủ ít khi bằng
lòng với những gì họ đã có. Mong muốn mở rộng các
vùng ảnh hưởng cũng như sự nổi loạn và đàn áp nổi
loạn trong các vùng đó sẽ dẫn đến xung đột buộc Mỹ
phải vào cuộc. Mỹ sẽ phải vĩnh viễn chấp nhận các
bất lợi về thương mại vì các khu vực ảnh hưởng về
kinh tế sẽ ngăn chúng ta không được can thiệp, và thúc
đẩy một cuộc đua xuống đáy về lao động, môi trường,
sở hữu trí tuệ và sự minh bạch.
Đóng
góp to lớn của Mỹ cho hòa bình và tiến bộ đã đặt
nền móng cho một thế giới mở, thượng tôn pháp luật
và có tính kết nối. Bây giờ Mỹ cần phải quyết định
xem có nên tiếp tục bảo vệ, sửa đổi và xây dựng
dựa trên nền tảng đó hay trở thành đồng lõa với
những kẻ đang cố phá vỡ nó.
Antony
J. Blinken là Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ.