Chỉ có văn hóa mà không có văn minh nên phải thua
người?
Suối Tó, cái tên của một miền quê sát tận chân núi,
nó phỏng theo âm thanh tự nhiên không êm đềm của tiếng
nước chảy róc rách nhưng là tiếng nước dội ngược
vào khe đá của con suối nhỏ tó tót tốc tốp… cũng là
nét đặc trưng của một làng quê hẻo lánh như dân gian
Việt Nam hay ví von xóm hóc bà Tó…
Nhưng mọi thứ ở thế gian như trước sự không ngờ,
khi phong trào Cần Vương chống Pháp nổi lên nhiều gia
đình người kinh đã chạy lên rừng trú ẩn, nhiều người
dừng chân nơi đây làm nơi du trú. Yếu tố đầu tiên để
họ quyết định đó là nước, theo quan niệm cổ Hy Lạp
khi giải thích thế giới và nay với những người chạy
loạn thật đúng vậy –Tất cả là nước! Nước là tất
cả, nước trên hết! Các buôn làng đã che giấu họ,
những thanh niên vạm vỡ, con gái thời đen đẹp, đen
tròn như các câu hát dân ca của chính họ… ‘ai thương
nhau thì nên vợ nên chồng… anh thương em vì em đẹp đen
tròn…’
Cuộc sống thanh bình nơi thung lũng xa xôi trong hẻm núi
nhờ sự tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài
cho đến năm 1954, khi chính phủ mới ở miền Nam tự do
hình thành, người kinh lần lượt về thành phố và họ
đã tạo được một mối dây thân hảo với người dân
tộc, nhiều gia đình là hôn nhân giữa các sắc dân. Họ
rất hạnh phúc. Nhờ xe cộ đi lại từ tỉnh lỵ dù qua
những con đường cheo leo, bây giờ khắp thôn làng nhà
sàn nào cũng có muối ăn, cá khô… vốn là những món
quý nhất trong các loại thực phẩm. Bên cạnh đó những
đêm hội hè, những cuộc đâm trâu thường xuyên…gia
đình nào cũng sinh thêm con cái, những người góa bụa
cũng được sắp xếp có nơi nương tựa, không thấy có
ai kiện tụng gì cả dù trong chế độ đa thê. Tất cả
được các già làng thu xếp với sự đưa tay biểu quyết,
trong những trường hợp ngoại lệ mới đến trưởng bộ
tộc, thường là một già làng cao niên và uy tín nhất.
Không có tòa án nơi đây chỉ có những cuộc họp hòa
giải.
Nhưng không lâu sau khi hòa bình lập lại với Hiệp định
Genève 1954, phong trào du kích lại nổi lên với những
khẩu súng trường xuất hiện trong buôn làng và các loại
lưu đạn thô sơ… Thế là ngôi làng cứ một đến hai
người chết và không lâu sau vùng ven núi này bị ảnh
hưởng của chiến tranh trong giai đoạn đầu cuộc chiến
Việt Nam nhiều nhất. Hằng ngày có hàng loạt pháo đại
bác nả vô tội vạ dưới chân núi nơi có con suối
thường bị nghi là nơi tập kết quân của phe miền Bắc.
Còn ban đêm Việt cộng nằm vùng tập họp dân làng lại
tuyên truyền dọa nạt, khủng bố… những con người
sống hiền lành chân chất gần như cả đời nay phải
đối mặt với những mất mát hy sinh mà họ không biết
từ đâu trên trời rớt xuống. Nó đổ xuống cho đến
lụi tàn mà không ai có thể ngờ được.
Dòng suối nước vẫn chảy trong vắt, thỉnh thoảng pha
lẫn một màu đen của tro than từ những nhà cửa bị đốt
cháy trôi sông và rồi trong sự sàng lọc tự nhiên nó
trở lại sự hiền hòa và tiếp tục theo sự tuần hoàn
‘nước đi ra biển lại mưa về nguồn’. Ngôi làng
không còn đàn ông đó, chỉ sót lại một ít ông lão
cùng phụ nữ và trẻ em. Không ai xác định được thời
điểm nào là giờ chính thức của những tiếng phèng la
báo tử buôn làng với kiểu nhà nước tự nhiên rất
thịnh trị nhân hòa của nó.
Họ đã theo chân những người miền Nam tự do ra thành
phố hay chạy lên núi theo phe miền Bắc, nhiều trường
hợp không theo bên nào nhưng cũng chạy vào núi. Tại tỉnh
lỵ họ được tái định cư thành khu riêng trên những
căn nhà sàn tạm bợ và cũng lãnh viện trợ Mỹ như mọi
người kinh khác trong chế độ tái định cư thời chiến
tranh. Những giàn tre nứa hình các vật thần cúng kiến
thường được dựng lên trước các nhà sàn nho nhỏ vài
đôi con lợn, con gà chạy bên dưới… Những thanh niên
trai trẻ cũng vào quân đội của Quốc Gia hoặc gia nhập
bộ đội cộng sản nếu vào rừng. Các cô đen đẹp thì
vào các đội văn công Cộng sản, văn nghệ Quốc gia…
Cuộc chiến kéo dài hơn mười năm từ khi họ chính thức
bỏ làng cho đến khi hòa bình được lập lại vào năm
1975. Tất cả người trong bộ lạc nhanh chóng từ thành
phố hay từ trên núi ‘bay’ trở về trong vui mừng của
ngày đoàn tụ, cũng có đôi người giở giọng tuyên
truyền cách mạng…nhưng hầu hết với họ không mấy ai
biết chữ và trong ý nghĩ từ những mất mát đau thương
đã trải qua: những thứ đó chỉ làm tổn hại chết
chóc, buôn làng đã ra tro…nên không mấy ai quan tâm,
những người còn sống trở về thật là may mắn xem như
thoát chết từ chiến tranh nên đâm lòng quý mến và
thông cảm nhau hơn. Cho dù họ cũng bị tác động chung
theo cái gọi phong trào cách mệnh, nhưng thâm sâu từ mỗi
già làng đã chuyền tai khắp buôn làng những thứ ‘giáo
điều Mác Lê Nin’ chỉ chém nhau thôi, bây giờ con người
văn minh rồi không còn giết nhau nữa mà cho nhau ăn nhậu
no say như họ đã chứng kiến khi ra ngoài những vùng tự
do…
Nhiều người kinh cũng theo chân họ đến vùng này vì
những quan hệ ít nhiều trong quá khứ và chuyện lên non
một thời là thượng sách với những gia đình thuộc
viên chức miền Nam khi chồng con phải vào các trại tập
trung, đi tù, họ bị buộc phải đi kinh tế mới và những
vùng núi hẻo lánh thiên nhiên ưu đãi hiền hòa quả là
quá tuyệt vời. Chỉ mới một thập kỷ trôi qua nhưng
giờ đây qua tiếp xúc với người thành phố dù họ sống
rất đóng kín trong các khu riêng biệt của người dân
tộc, nhưng mọi thứ cũng thay đổi trong cách sinh hoạt
quan hệ theo kiểu người văn minh thị thành. Riêng thành
phần từ chiến khu trở về, đúng là mang những mầm tai
họa cho họ…các chiến binh không thiếu một thứ bệnh
gì và điều kiện vệ sinh của mỗi cá nhân không tưởng
tượng được về sự nhơ bẩn nhưng lúc nào cũng nói
đến văn minh như nếp sống văn hóa mới tiến bộ.v.v…
Nhưng sự phân biệt biến thành một sự yên lặng khinh
bỉ đến đáng sợ vì những du kích từ rừng nhơ nhớp
kia bây giờ nắm chính quyền, họ thuộc phe chiến thắng…
Và như bao nước kém phát triển khác không có con đường
nào làm giàu nhanh chóng bằng việc nắm quyền lực trong
tay. Tầng lớp mới dần dần biết đánh răng và đi vệ
sinh trong các nhà cầu tự tiêu.v.v… Những căn nhà xây
gạch mái ngói bắt đầu từ nhà cán bộ đảng viên cộng
sản và người dân đa số vẫn chui vào trong những căn
nhà tạm bợ. Buôn làng trở thành một xã nhỏ ở nông
thôn, mọi quyền lực bây giờ không còn tập trung trong
tay các già làng nhưng trong tay công an xã…
Nhiều năm trôi qua của một thời gọi là hòa bình,
khoảng chừng hơn ba thập kỷ nhưng không có gì an bình,
cuộc sống quá cơ cực của người dân trong buôn làng
khiến ai cũng suy nghĩ về thời chế độ miền Nam Tự
Do, một thời thái bình thịnh trị mổ trâu đều đều.
Trong mỗi nhà bây giờ đều có treo hình của một vị
lãnh tụ khác, nhưng chỉ có cán bộ đảng viên là phát
lên giàu có trong buôn làng, cộng thêm với các người
kinh khá giả nhờ cấu kết làm ăn với tầng lớp lãnh
đạo mới ở địa phương. Người dân bị lừa bán đất
đai, cây cối bị chặt phá, bao cây cổ thụ từ rừng
râu bị đốn hạ và chở về miền trung du đến các thị
thành, hoa màu làm ra cũng bị mua với giá rất rẻ, những
già làng bây giờ không còn ai và tầng lớp thống trị
mới luôn cấu kết với con buôn gọi là bọn ‘buôn mọi’
để lừa dối họ…
Các thế hệ nối tiếp nhau, người kinh có nhiều phương
tiện hơn và lên xứ Thượng để tìm cách buôn bán trao
đổi, còn chính họ phần lớn không ra khỏi buôn làng kể
cả thành phần ra tỉnh lỵ định cư năm xưa nay đã lớn
tuổi, họ dần trở lại cuộc sống cùng nếp sinh hoạt
của một bộ tộc thuần chủng với nền văn hóa riêng
dưới sự chỉ dạy của các già làng. Càng giữ truyền
thống khép kín bao nhiêu, với công việc hằng ngày ngoài
mương rẫy cuộc sống càng thêm cơ cực như khi ruộng
lúa của cán bộ dùng thuốc trừ sâu nhưng họ lấy tiền
đâu và cũng không ai trợ giúp nên đám ruộng bên cạnh
trở thành mồi ngon cho côn trùng. Sự cách biệt giữa
giàu nghèo nay thấy rõ với những nhà xây kiên cố chung
quanh các Ủy Ban Nhân Dân, đó là nhà của các cấp chính
quyền và xa xa đến mãi tận sâu trong núi có cuộc sống
cùng cực, đó là sự tồn tại của những người bộ
tộc chân chất quanh năm với ruộng rẫy truyền thống.
Nhưng nét đẹp của của những người con gái cũng
như những chàng trai vạm vỡ này nay vẫn còn. Một ngày
kia những mối lái thay vì buôn cá khô, mắm muối…họ
nghĩ đến chuyện buôn người. Những cô gái đen đẹp và
chân chất được dịp làm quen với nhiều người lạ
trong sự quen biết như vô tình. Từ những con cá mắm để
làm quà mỗi khi có dịp ngang qua rồi vải vóc quần
áo…khiến các cô thích thay đổi đời, trước là chuyển
nghề, không ai muốn làm nghề nông nữa, khổ quá…Những
chiếc cần câu từ những người phương xa nhấp dụ con
mồi từ từ, các cô gái được những người lạ nay trở
thành thân quen làm biến đổi hẳn vốn đã đẹp một
cách tự nhiên…Những chuyến rủ nhau về thành phố cũng
đã xảy ra và không ai thấy mất mát gì ngoài niềm vui…
Những bà mẹ tiếp tục nhận quà và bây giờ trong họ
với niềm mong ước các con mình không còn lam lũ, nghe nói
thằng K’Nông chạy núi ngày nào, nay làm Bí thư và con
nó đã có tiền qua Mỹ học, cả con của thằng K’Đu
Chủ Tịch cũng có con sang Singapore để học nghề…Trước
khi nhắm mắt xuôi tay mong sao các con được sung sướng,
các già làng nay nơi chín suối cũng yên lòng hả dạ.
Một trong những cô gái đẹp con bà Mo đã lên đường
gọi là để phụ giúp bà bạn mấy lúc nay hay đến cho
quà, cô gái ra đi theo lời hứa hẹn chỉ phụ việc nhà
và mỗi tháng sẽ có tiền gởi về cho bà Mo, thôi thì nó
cũng giống như một vài người từ làng định cư năm
xưa đã di tản sang Mỹ và nay có tiền gởi về, trong
làng nay được đôi người. Sướng thật!
Đúng như vậy tiền đã được gởi cho bà Mo đều đều,
nhưng bà không thấy cô con gái trở về, bà có ra thị
trấn gọi điện thoại cho con nhưng bà chủ báo cho biết
cháu chưa thể về được. Đã nhiều lần như vậy nên
bà Mo đâm lo, lần này bà đích thân ra thành phố… Những
con đường mấy chục năm trước hầu như vẫn còn hiện
ra trong trí nhớ của bà, mọi nẻo đường đều phải
nhớ lúc đó cho đến đoạn cuối về đến cái nhà sàn
ở trại tỵ nạn…ngày ấy chiến tranh mà sao mình dung
dăng dung dẻ quá, thật là ngây thơ và mình cũng nhan sắc
như con gái bây giờ nhưng chỉ có một người chồng…lâu
lâu đi hành quân lại trở về thật tuyệt vời và mình
đã sinh ra một đàn con…Cô gái út này đã lâu lắm sau
hòa bình, sau ngày cha nó ra khỏi trại tập trung và cũng
qua đời không lâu sau khi về nhà.
Suy nghĩ mông lung, chiếc xe ôm đưa bà đến đúng địa
chỉ lúc nào không hay. Bà Mo đã gặp con, thấy nó buồn
mặt mày xanh xao, nói chuyện một lúc lại ngủ gục, cô
gái không nói gì chỉ bảo hỏi thăm mẹ khỏe không và
muốn về nhà…Bà chủ nhà mang biếu bà Mo một số tiền
khoảng 3 triệu đồng và hẹn lần sau sẽ cho cháu về vì
công việc gia đình đang bận rộn…
Trên đường về cầm nắm bạc trong tay như linh cảm của
người mẹ với thân phận con gái, bà Mo nghỉ nhà vài
hôm rồi trở lại với lý do xin về giỗ cha cháu gái.
Chủ nhà thấy vậy biết là chuyện chẳng lành nên vội
gởi thêm tiền để về làm giỗ, nhưng bà Mo nhất quyết
không nhận chỉ muốn đưa con về thăm nhà rồi hẳng
hay. Cuộc thương lượng bất thành, bà Mo rời khỏi nhà,
bây giờ chỉ còn biết chạy đến cơ quan quyền lực
nhất như tại địa phương của bà. Một trạm công an
Phường gần đó và bà trình bày sự việc, họ lấy lời
khai và cùng đưa bà Mo đến để giải cứu con gái…Có
điều kỳ lạ bà không nói con gái bị bắt làm đĩ,
nhưng các anh công an này lại như đã biết rồi ‘con bé
ấy đang hành nghề mãi dâm trong một đường dây rất
kín…’!
Họ cùng đến địa điểm, cả ông chủ tú ông và tú bà
đều rất vồn vã sẵn sàng cho cháu về theo yêu cầu của
công an…Nhưng lúc đưa cô gái ra đi họ đã cùng sắp
xếp cho cô lên xe taxi, còn bà Mo đã có một chiếc xe ôm
đợi sẵn…Bà cố nài cùng đưa con về nhưng họ bảo
cô ấy đã đi trước…Trong linh cảm của người mẹ một
lần nữa bà chạy đến công an và kêu ‘cứu tôi với
với…’ Nhưng tất cả như tiếc rẻ về cô gái xinh đẹp
sẽ không còn nữa, họ đồng thanh bảo ‘chúng tôi đã
chứng kiến họ giao con cho bà rồi cơ mà...’
Người Mẹ bây giờ có thể khẳng định chắc một điều,
đó là sự chẳng lành cho cô con gái. Bà không cần công
an nữa, bây giờ bà nằm lăn giữa đường ngay trước
nhà con bé đã ra đi dưới danh nghĩa làm ô sin… ‘Cứu
tôi với làng nước ơi… hãy cho con tôi về… Cứu tôi
với…’ Và thế là sợ đứt dây sẽ động rừng nên
tú ông và tú bà phải sắp xếp êm thắm để hai mẹ con
bà dân tộc ‘đen đẹp, đen tròn’ trở về buôn làng.
Trên chuyến xe ôm hai mẹ con ngồi ôm chặt vào nhau có
hơi chật với chiếc xe máy chở ba người, bà quá sợ
mất con nên nhất quyết phải cùng xe…Bây giờ thì bà
Mo đã hiểu rõ con bà đã sa vào cạm bẫy như thế
nào…Trong lo toan của bà cũng như bao dân làng khác, mỗi
khi gặp tai biến đều thường nghĩ đến các già làng…Bà
nghĩ về Cái Nhà Làng nơi đó bà sẽ cúng tế hầu rửa
sạch mọi thứ để con bà có cơ hội làm lại cuộc đời,
trên đường đi bà cũng nhìn quanh vì nghe nói từ thưở
còn thơ người Kinh có cái Đình và cả triết lý Cái
Đình, khi gặp khốn dân làng có thể chạy đến Đình
làng, nhưng nay tìm mãi không thấy đâu hết…
Bây giờ thì Chùa Chiền, Nhà Thờ… xây nhiều lộng lẫy
quá, ôi chế độ này thật là tự do tôn giáo, đạo đức
được chấn hưng ? Nhưng riêng hoàn cảnh mẹ con bà và
nhiều gia đình khác từ nông thôn muốn lên thành thị để
thay đổi đời, nghĩ đến đó bà Mo chua xót vô cùng
trước thảm cảnh con gái bà phải lọt vào ổ mãi dâm…
cổ bà Mo muốn nghẹn cứng trong uất hận: người dân
tộc của mình có tục đa thê, nhưng người phụ nữ khỏe
hơn chỉ chiều một chồng, có khi nhiều ngày mới chiều
một lần, còn nền văn minh kia có luật hôn nhân một vợ
một chồng hoặc cả việc tận hiến không vợ không
chồng, nhưng biết bao phụ nữ trong đó có con gái mình
phải rơi vào hệ lụy phục vụ nhiều đàn ông có khi
quá nhiều đàn ông trong một ngày. Như vậy nghĩa là làm
sao…Ôi mình chỉ có văn hóa mà không có văn minh nên
phải thua người?
***