Đêm Sài Gòn, một góc
khuất cuộc đời.
Nguyễn Quang
Người phụ nữ tên Hội nói với bé An ‘cố gắng lên
con, chỉ có học mới đổi đời’. Con bé im lặng, nó
giống như chữ Om trong cuối mỗi bài kinh cứ lập
lại hoài, nó ráng nhíu mày lên nuốt cho trôi mấy dòng
chữ cuối cùng của một đoạn văn sẽ trả bài ngày
mai, trong ám ảnh ngái ngủ từ tiềm thức với lời thầy
chủ nhiệm “nếu các em quên đoạn nào hãy xin đi vệ
sinh vào đó để copy hoặc hỏi nhau…” khiến những dịp
thi học kỳ trở thành ngày hội của các em nơi nhà xí…
bạn nào cũng mót hết.
Để con bớt buồn ngủ, mẹ nhích lại gần và cùng An
nhìn ánh trăng, trăng khuất sau những dãy nhà cao tầng,
họ nhìn những bóng đèn điện thêm những tia laser tân
thời tỏa sáng cả bầu trời của Hòn Ngọc Viễn Đông.
Gia đình này không có nhà trên đất liền, họ sinh hoạt
trên một chiếc ghe nhỏ, cũng vui đùa với nhau như sống
trên du thuyền, giàu có như ai. Có đêm nước tràn vào
suýt ngập chìm cả ghe vì con thuyền đã quá cũ kỹ. Cả
nhà thức dậy tát nước đến gần sáng luôn. Quả là
một sự khác biệt to lớn, chỉ cách nhau mấy bước nhảy
lên khỏi bờ sông là những tòa building to lớn và những
gì của chốn đô hội phồn hoa. Cháu An hỏi mẹ:
- Có thật sự việc học sẽ giải quyết chuyện đổi
đời, cháu bé lớp Sáu hỏi mẹ.
-Sự thường là như vậy nhưng bây giờ cuộc sống thay
đổi quá nhanh mẹ không biết như thế nào.
Đêm Sài Gòn, bên cạnh sự phồn hoa...còn những góc
khuất của cuộc đời nơi những dòng sông, con rạch, ga
tàu, của một nghĩa trang hay ngôi chợ lớn nhỏ nào
đó...Chốn cô quạnh khốn cùng của cuộc đời cũng
thường là nơi sản sinh những tâm hồn tự thắp sáng
mình bằng những ước mơ bình thường nhất để hi vọng
vào ngày mai.
Người mẹ kỳ vọng hết sức vào cô con gái, hai vợ
chồng có thể làm bất cứ việc gì kiếm ra tiền miễn
là nghề lương thiện cũng như không vượt ra quá khả
năng của chính mình. Họ thả cá, nhặt ve chai, các đồ
phế thải dọc bờ sông…người Việt Nam vào thời điểm
này vẫn thích phóng uế bất cứ vật dụng thừa thải
xuống dòng sông… trên đường đi học về thay vì làm
hành khách dọc đường xin ăn, cháu bé biết nhặt đủ
thứ bao ni lông để phụ cha mẹ, quả là trên một thành
phố quá văn minh những kẻ nghèo mạt tận ‘có thể
vượt số phận nếu chịu khó’. Đoạn cuối mỗi bài
kinh của mẹ dạy vẫn luôn chôn sâu trong tiềm thức cháu
gái. Cho đến năm mười ba tuổi cháu tự nhận thấy mình
phải tìm cho ra những người có đầu óc trở nên giàu
có, nhất là sự lương thiện như cha mẹ mình lại phải
sống trên chiếc ghe tạm bợ mục nát không khác gì chỗ
bờ bụi.
-Mẹ ơi, ngày xưa mẹ học đến lớp mấy vậy?
Biết rằng bà không vui khi hỏi những chuyện xưa, nhưng
rồi người mẹ vẫn trả lời:
-Cha mẹ không được học hành gì hết sau chuyến tàu di
tản từ Đà Nẵng vào Nam…không phải đi vượt biên
đâu…Khi tàu vừa ra khỏi bờ những người gọi là giải
phóng đã ném lưu đạn khiến tàu chìm, nhưng sao may có
hai cháu bé bằng tuổi con bây giờ còn sống sót, cùng
dính chặt trên một mảng thuyền…thế rồi một chiếc
tàu toàn lính miền Nam thấy vậy lúc ngang qua đã vớt và
cùng cho hai cháu ấy cùng lên ghe, cho ăn uống và cập bến
Vũng Tàu…Ba và mẹ đã sống như hai anh em đùm bọc nhau
và thành cha mẹ của con như hôm nay…nên lấy đâu ra
tiền mà học, có một thời nhặt rác tại chợ Bến
Thành thỉnh thoảng vào nhà vệ sinh thay quần áo thật
sạch, cả hai đều luôn có bộ đồ ‘quý giá’ bọc ny
lông đàng hoàng gọi là bộ đồ ăn nói, thế là thay
nhanh chạy vào thư viện hay nhà sách nào gần đó đọc
báo cọp vì sách phải có thẻ…nhờ vậy mà kiến thức
ngày càng mở rộng. Có thời gian mẹ lấy lòng được
chị lao công ở một thư viện, nhận làm phụ để lấy
lòng và chị ấy mượn cho cho bộ truyện Ngàn lẻ một
đêm…đọc tại chỗ chứ không được mang về nhà, ôi
sướng quá chừng. Thế là ngày hôm ấy từ sáng sớm lo
nhặt bao chai hay khuân vác gì đó cho ai hầu đủ số tiền
để cả hai cùng chạy lên Thư Viện…Cha và mẹ không
được may mắn gặp ai có tôn giáo nên không theo đạo
nào, nhưng dường như còn nhớ thoáng trong đầu ông bà
nội ngoại ngày xưa đều là các viên chức trong chính
quyền miền Nam.
- Thế thì từ Vũng Tàu vào Sài Gòn theo đường sông mất
bao lâu vậy mẹ?
-Phải mất ba năm cả hai người bạn mới vào đến một
nơi gọi tên Sài Gòn, lần đầu tiên cả hai làm thuê
trên một chiếc thuyền và nghe sắp cập và bến Hàm Tử
để bỏ hàng…ôi nhìn cảnh Sài Gòn dọc bên hai dòng
sông đến chóa mắt. Cũng từ lần ấy ba mẹ có ý định
ở lại Sài Gòn với bất cứ giá nào, nhưng mãi mấy năm
sau mới toại nguyện và khi sinh ra con với số vốn liếng
để dành coi như hết sạch vì trôi theo sông nước nên
không được chăm sóc y tế đầy đủ. Mọi sự rồi cũng
qua trên con thuyền đang rệu rã này nhưng với ba mẹ cũng
thật hạnh phúc ngút ngàn biết bao.
- Mẹ ơi, bước lên khỏi bờ là thấy văn minh, giàu có…
còn mình nghèo quá làm sao có hạnh phúc trọn vẹn được…
-Đúng vậy đấy con, nhưng con thấy ba mẹ có bao giờ có
tiếng lớn với nhau, nghèo sẽ hạnh phúc không trọn vẹn
có thể đúng, nhưng giàu có khiến bao gia đình tan vỡ
nhiều hơn…rồi con sẽ hiểu vấn đề là sinh hoạt tinh
thần. Mỗi gia đình như cái nôi của xã hội và cả một
dân tộc như cái nôi của toàn nhân loại…sống có một
triết lý nhân bản, nhận ra nhau là con người, lúc đó
chúng ta sẽ bắt đầu có hạnh phúc.
- Ba mẹ luôn nhận ra nhau là nạn nhân của sự ác, nên
lúc nào nghĩ đến thân phận cũng thương yêu đùm bọc
nhau…
-Vậy cha mẹ có muốn trả thù…
- Chính đó là thái độ làm con người thanh thản siêu
thoát, nhẹ nhàng trước cuộc sống…Không, đừng trả
thù vì không ai muốn người khác hận thù rồi giết
mình, không nên làm như vậy. Mẹ chỉ mong ước ngày nào
đó được thử gene của những viên chức miền Nam để
mẹ tìm ra tông tích ông bà ngoại…mẹ tin sẽ có một
ngày dân tộc này sẽ có bản đồ gène về mọi thứ,
một khi con người biết rõ cội rễ của mình sẽ ít ra
biết được điểm gần nhất mình từ đâu đến, có thể
góp phần thêm sự viên mãn ở cuộc đời.
Đêm đã về khuya, người cha trở về, tiếng tàu thuyền
xình xịch, tiếng nước vỗ bờ cùng cánh tay vỗ đập
mạnh đã chạm vào mạn thuyền với cái rớ cùng lờ ước
chừng như mọi đêm khoảng vài ký cá sông…
Con thuyền lênh đênh trên khắp các bờ sông Sài Gòn, nó
chứng kiến bao sự sụp lở của dòng sông, thường sự
bồi đắp có khi hàng thập kỷ sau mới được con người
nhắc đến nhưng sạt lở ở đâu liền có sự lớn tiếng
của con người. Chiếc thuyền mong manh từ số tiền kiếm
được do công khó nhọc làm khuân vác của hai người
trên bến cá Vũng Tàu, theo thời gian lần mãi vào đến
Sài Gòn, nó không có bến đậu cho đến khi An vào Trường
Tiểu học cả gia đình mới cập neo nơi bến sông gần
nhất. Nó đã đi qua trên bến Chương Dương, Hàm tử, núp
dưới chân cầu chữ Y, Chà Và…dọc bờ sông quanh bán
đảo Thanh Đa rối đến bến Bình Lợi lên tận Bến
Các…Nó cũng lướt sóng thật nhanh mạnh mẽ như con
người lúc còn ‘trai trẻ’ rồi phải chắp vá như cuộc
đời bao thế nhân ‘sinh bệnh lão tử’.
Chiếc đèn nhỏ bằng dầu thắp lên khi người cha về và
bữa cơm đạm bạc nhưng thật hạnh phúc, ấm cúng tình
gia đình…Cơm nước xong họ mang mọi thứ ra bờ ghe thọc
tay xuống nước rửa ráy thế là xong một ngày trên du
thuyền. Chiếc ghe đong đưa lắc nhẹ theo con sóng nước
lăn tăn, bà Hội nghĩ về một ngày mai và hy vọng từ
những rác rưởi của cuộc đời này như bao người buôn
bán ve chai mà nuôi con tốt nghiệp Đại học. Bà có ước
mơ và hy vọng trong vài năm nữa An cũng sẽ vào Đại
học, bà nghĩ ‘cho dù nó vẫn chỉ là một cái cần kiếm
cơm từ đời cha câu cá đến đời con câu cơm bằng một
phương tiện khác, chuyển đổi thế thôi, trên xứ sở
này nó là như vậy, còn chuyện trên đại học có dạy
làm người, biết tư duy độc lập… chắc phải còn lâu
hơn nữa.
Nguyễn Quang