|
Nhiều bạn hỏi ngay mái nhà thế giới ở đâu? Xin thưa
ngay đó là xứ Nepal một xứ nằm giữa Ấn Độ và Tây
Tạng và vì xứ có độ cao rất lớn, -dưới chân núi
Everest- nên ai cũng gọi đó là the roof of the
world!
Phần lớn người ta thường qua Nepal là để du ngoạn,
đi bộ dọc các đường mòn lên núi xuống đèo
(trekking), đi chừng 10 ngày lại về nước, hoặc có
thể đi hành hương xứ Phật vì Đức Phật sinh ra đó tại
vườn Lâm Tì Ni, tức Lumbini, một tỉnh của Nepal giáp
ranh với Ấn Độ .
Riêng người viết bài này qua Nepal không phải đi du
ngoạn trekking như những thanh niên lực lưỡng, chán
cảnh nhà cao ốc beton, chán cảnh ô nhiễm tiếng động
của các đô thị để muốn tìm về rừng, tìm lại cảnh
thiên nhiên, nhìn cảnh mặt trời ửng sáng từ từ
chuyển màu từ chân núi Everest... Kẻ viết bài này
qua Nepal cũng không phải đi hành hương xứ Phật
nhưng thật ra qua đó là để đi làm việc.
Thực vậy, tác giả không phải ở Nepal 5- 10 ngày như
phần đông các du khách mà gần 1000 ngày, từ 1983 đến
1986,vì có dịp làm chuyên viên nông nghiệp tại xứ
đó. Nhưng cũng trong khoảng thời gian đó, vào mùa
đông 1984, tôi có dịp trở về Canada và khi trở lại
Népal làm việc sau kỳ nghĩ thường niên, tôi về Népal
qua ngã Thái Bình Dương chứ không phải qua ngã Âu
Châu như mọi lần, do đó có ghé lại Los Angeles trước
khi về Manila và Bangkok để đi Kathmandu, thủ đô
Nepal .Vẫn còn nhớ ở Los Angeles, có một số anh em
Nông Nghiệp mời cơm tối tại nhà hàng; thoáng nhìn
trong bàn tiệc tối hôm đó thấy toàn 'chức sắc ' của
Hội Nông Nghiệp như Châu Cự Xu, Phạm Văn Bách., Bùi
Bỉnh Bân, Chu Quang Cẩm v.v. Ngày hôm sau, tôi phải
rời Los Angeles để đi Manila, thăm viếng IRRI; ở
Manila, có dịp gặp lại Trần thị Lệ Chi đang làm cho
một dự án bảo vệ thực vật của chính phủ Đức tài trợ
cho chính phủ Phi luật Tân, còn chồng cũng là người
Đức, kinh tế gia ở Asian Development Bank. Rời
Manila bằng Japan Air Lines để đi Bangkok, tôi bồi
hồi từ khung cửa chỗ ngồi trên máy bay nhìn xuống
không phận Đà Nẳng: các năm đó, Việt Nam bế quan toả
cảng không có ai thăm viếng được chứ không như ngày
nay.
Vào thời điểm 1983-86, tôi là người Việt duy nhất
sống và làm việc ở Nepal.
Địa lý
Nhỏ bằng nửa nước Việt, vì diện tích là 147 181 km2
(so với nước Việt là 330 000km2) và dân số quãng 20
triệu người (nước mình là 80 triệu)
Nằm giữa Ấn Độ phía Nam và Tây Tạng phía Bắc, nên
trải qua hàng ngàn năm, đây là nơi hội tụ của hai
làn sóng di dân : một của người Ấn Độ-Aryan từ phía
Nam và một từ những dân bán du mục gốc Tây Tạng và
Mông Cổ đến. Những tộc người Ấn-Aryan đến ở tại
những núi đồi, lập thành nhiều tiểu quốc. Năm 1768,
thủ lãnh vương quốc nhỏ Gurkha xâm chiếm được quyền
hành các tiểu quốc lân cận kia và thống trị thống
nhất sơn hà, tạo nên nền móng Nepal ngày naỵ
Tại Nepal, ngoại trừ một dãy đồng bằng phù sa của
sông Hằng dọc theo biên giới với Ấn Độ mà nguời ta
thường gọi là TERAI, còn ra là những
dãy núi cao và
càng gần dãy Himalaya thì núi càng vươn cao chừng
nấy. Vì dân đông so với diện tích đất nông nghiệp
vốn rất ít ỏi nên người ta phải tận dụng đất, làm
ruộng bậc thang từ chân núi lên tận đỉnh núi cao.
Vì ít khi các hãng hàng không quốc tế có máy bay đến
thẳng Kathmandu, nên thông thường là tới New Delhi
trước rồi từ đó mới lấy máy bay hãng Ân Độ Air India
hoăc Indian Air Lines đi đến Kathmandu .
Đáp máy bay từ Paris đi New Delhi, nơi tôi phải đến
trình diện toà Đại sứ Canada trước khi đến Kathmandu,
tôi đã thấy nhiều chuyện là lạ. Trên máy bay, thức
ăn là thịt gà không có thịt bò, không có jambon thịt
heo vì Ấn Độ cữ kiêng thịt bò (họ thờ bõ) mà cũng
kiêng thịt heo vì trong xứ Ấn Độ cũng có người Hồi
giáo chứ không phải chỉ Ấn độ giáo. Báo chí trên máy
bay cũng toàn báo chí Ấn Độ, không có các tạp chí
các nước khác để đọc.
Công việc
Dự án có tên là K-BIRD. Và cũng xin bạn đọc đừng
nghĩ chắc tôi lo bảo tồn chim chóc gì đó trong cái
dự án có tên như vậy! Thật ra, chữ K-BIRD toàn chữ
là Karnali-Bheri Integrated Rural
Development.
Karnali và Bheri chỉ là tên hai dòng sông lớn ở phía
Tây Nepal và dự án này nằm trong bồn lưu vực
(watershed) của hai sông này nên có tên đó
Trước khi bắt tay vào công việc, họ cho tôi học 1
tháng tiếng Nepali do một thầy còn trẻ dạy qua tiếng
Nepali, chỉ nói với tôi bằng tiếng Nepali, lúc đầu
không hiểu, nhưng từ từ hiểu dần. Học một tháng chỉ
biết nói qua loa cảm ơn, chào ông, chào bà, anh ăn
cơm chưa v.v. nhưng khi gặp nói vài câu như vậy cũng
cho dân họ biết mình muốn cố gắng hoà đồng mà thôi.
Họ cũng chỉ cho cách chào hỏi như chắp tay trước
ngực và nói Namaste! Ngoài tiếng Nepali, ngôn ngữ
chính thức là Anh ngữ.
Sau đó là phải đi làm việc. Dự án bao gồm 3 quận
Surkhet, Dailek và Jumla và xem như thuộc vùng Trung
du và Thượng du Nepal, nằm về phía Tây xứ này, cách
Kathmandu hơn 1 giờ bay.
Chức vụ của tôi gọi là Natural resources advisor tức
cố vấn tài nguyên thiên nhiên. Chức năng này có một
nội hàm rộng lớn vì bao gồm cả nông, lâm, súc. Nhưng
vì là cố vấn (tôi còn nhớ chữ Nepali gọi là
salahaka) nên chỉ giúp ý kiến và theo dõi sự thực
hiện, còn thực hiện các họat động hoàn toàn do các
Ty sở địa phương (line agencies) ở 3 quận trên trông
nom.
Về nông thì ngoài lúa trồng miền Terai và trong các
thung lũng, người Nepal còn trồng lúa từ chân núi
lên đỉnh trên ruộng bậc thang, nhờ nước suối chận
lại.
Nepal còn nhiều hoa màu nhiệt đới như bắp nhưng cũng
có khoai tây, lúa mì, lúa mạch, mạch ba góc
(sarrasin) . Trên các thung lũng cao về phía Bắc, họ
cũng trồng lúa mạch, kê, táo. Trong vùng dự án cũng
có vài Trung Tâm Thực Nghiệm Nông Nghiệp rải rác.
Về lâm thì nhiều vấn nạn hơn: nào là xói mòn, phá
rừng, nạn dê thả rong phá cây con, đốn lá cây cho bò
ăn, bồn lưu vực bị thoái hoá.
Về súc thì có trâu bò nhưng nuôi bò chỉ để cày cấy
chứ không được ăn thịt; trâu cái để cho sữa uống.
Uống nước trà thì phải pha thêm sữa trâu. Còn bò cái
địa phương giống không cải thiện nên sữa chỉ vừa đủ
cho con bê bú mà thôi, không dư cho người.
Trụ sở chính của dự án là ở Surkhet, một quận lỵ nằm
vùng Trung du, cao độ 700m.
Surkhet, chỗ tôi ở nao nao giống làng quê tôi ở miền
duyên hải Trị Thiên. Đêm khuya, nghe tiếng chày giã
gạo như tôi đã từng nghe những năm tháng thời tiền
chiến thuở còn nhỏ học tiểu học trường làng, vì vùng
này cũng chưa có máy xay lúa xát gạo, buổi trưa cũng
có thể nghe tiếng gà gáy sau lũy tre, sáng cũng nghe
tiếng gà gáy vì vùng này không có nuôi gà công
nghiệp. Chợt nhớ những vần thơ:
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà
Thỉnh thoảng cũng phải đi lên núi, trèo đèo, lội
suối vì đọc phúc trình các nơi gửi về thì nhiều, nào
inception report, semestrial report, monthly report,
progress report. Đi tại chỗ có lợi là nắm vững tình
hình hơn và thăm dân cho biét sự tình luôn.
Đi công tác toàn đi bộ, vì không có đường xe chạỵ.
Tôi có dịp đi công tác tại cả 3 quận miền núi. Núi
non Nepal hiểm trở nguy hiểm hơn ở Việt Nam nhiều.
Thực vậy, dãy Truờng Sơn ở Việt nam chỉ là đàn em
của dãy Himalaya.
Đúng như Tản Đà đã viết, 'non cao tuổi vẫn chưa già'
, dãy núi Himalaya tuy cao chót vót vậy mà tuổi đời
còn trẻ lắm vì mới phát sinh chỉ cách đây vài chục
triệu năm mà thôi, so với nhiều sơn khối cổ cả hàng
trăm triệu năm như dãy Rocky Mountain hay dãy
Appalachian của Bắc Mỹ . Nhũng vách núi, những thung
lũng , nhũng đồi vắt vẻo bên sườn núi dựng đứng. Đó
là chưa kể vào mùa đông gặp tuyết rơi trên núi,
nhiều đường lách núi bị bít luôn. Tôi nhớ một hôm nọ
sau nhiều ngày đi miền núi, trước cảnh một vực đá
thăm thẳm nguy hiểm bắt buộc phải vượt qua, một
chuyên viên Canada khác phải thốt ra: Bây giờ tôi
mới hiểu tại sao Anh không muốn xâm chiếm xứ nàỵ !
Qủa thực, người Anh đến Ấn Độ, Hồi Quốc chứ không
bao giờ chiếm Nepal cả.
Tuy vậy, cũng có nhiều đoạn đường rất đẹp trên vùng
núi. Không có những nấm mộ lồng bàn, 'sè sè nấm đất
bên đường, rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh' bởi
một lẽ rất đơn giản là xứ này như Ấn Độ chỉ đem xác
người và lượm củi đốt cạnh bờ suối, bờ sông rồi
liệng tro xuống nước chảy trôi ra sông, rồi ra bìển
cả . Nhiều nơi 'nao nao dòng nước uốn quanh, nhịp
cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang' với nhiều rừng
thông, rừng sồi, rừng giẻ cùng những loài chim lạ
góp nhạc về trời . Một vài nhà sàn cheo leo bên sườn
núi dưới ánh chiều tà. Trên núi nhà sàn rất nhiều,
nuôi gia súc dưới sàn nên không vệ sinh .
Máy bay trong nước phần lớn là máy bay Twin Otter
(19 chỗ ngồi) của Canada bán. Đây là loại STOL nghĩa
là short take-off and landing, có thể cất cánh hạ
cánh xuống phi đạo ngắn vì nước Nepal toàn đất núi
nên phi đạo thường rất ngắn ở các thung lũng xung
quanh núi và không phải quận nào cũng có sân bay.
Các phi công Nepal lái máy bay Twin Otter đều có đi
học lái tại British Columbia, vì tiểu bang này có
địa hình địa vật như Nepal, nghĩa là có thung lũng
hẹp, có suờn núi dốc đứng.
Thiên nhiên khắc nghiệt
Thiên nhiên khắc khổ dĩ nhiên tác động đến tính con
người: chịu thương chịu khó, tiết kiệm, cần cù.
Người Anh vốn biết như vậy nên tuyển mộ lính tại
Nepal. Họ có cả một Trung Tâm ở phía Đông Nepal, tại
Dharan chuyên môn tuyển lựa những thanh niên thuộc
các bộ lạc Gurung, Tamang có khuôn mặt tương tự như
người Việt, người Tàu; đó là loại lính thiện chiến,
đi hàng đầu trong mọi trận mạc hay nơi hiểm yếu.
Trước kia họ đóng ở HongKong, Singapore, Brunei. Mà
không phải chỉ nuớc Anh mới tuyển mộ lính Gorkha này
mà ngay cả Ấn Độ cũng vậy.
Buôn bán trao đổi hàng hoá
Có sự hỗ tương giữa các vùng trong nước: ngưòi miền
Jumla gần Tây Tạng chở len xuống đồng bằng, vì miền
núi và cao nguyên Tây Tạng có nuôi nhiều cừu và chở
bằng lừa ngựa xuống và khi chở lên thì phải chở muối
vì trên núi không có muối . Đặc biệt tại miền núi
Jumla không xa Tây Tạng bao lăm có một loại trâu gọi
là yak, rất chịu lạnh và rất mạnh; dân chúng thồ
hàng miền núi cao toàn bằng loại trâu yak nàỵ.
Kinh tế và viện trợ quốc tế
Vì là xứ toàn núi đồi, địa hình qúa sức hiểm nghèo
nên đường giao thông trên núi rất hiếm. Cũng may là
Trung Quốc làm cho đuờng xuyên núi từ Kathmandu đi
Pokhara, đưòng từ Kathmandu đến cửa ải Tây Tạng ở
Kodari, Ấn Độ cũng giúp làm đưòng. Tuy nhiên chẳng
thấm vào đâu so vói nhu cầu giao thông của xứ này.
Vì cái khó bó cái khôn, tài nguyên tài chính không
thể nào thỏa mãn các nhu cầu qúa lớn lao về đủ mọi
mặt như giáo dục, y tế, phát triển hạ tằng nên Nepal
kêu gọi và được nhiều xứ đáp ứng: viện trợ song
phương thì viện trợ của nhiều nước, đặc biệt là Nhật
cho nhiều tiền nhất, sau dó là Ấn Độ rồi mới đến
Đức, Anh, Mỹ, Trung Quốc; viện trợ đa phương thì các
ngân hàng phát triển như Asian Development Bank cho
vay lãi xuất thấp; đó là chưa kể nhiều tổ chức phi
chính phủ như Peace Corps, thiện nguyện Nhật Bản,
Anh, Đức, Thuỵ sĩ nmuôn màu muôn vẻ ..
Nepal là xứ rất nghèo vì tài nguyên không có bao
nhiêu, không có dầu hỏa như Việt Nam, không ăn thông
ra biển như Việt Nam, không có than đá như Việt Nam,
không có mỏ hột xoàn như ở Nam Phi hoặc mỏ đồng như
Congo (Zaire). Mọi việc xuất nhập đều phải qua hải
cảng Calcutta của Ấn nên nếu Ấn Độ không cho qúa
cảnh thì Nepal rất kẹt. Do đó, chính sách đối ngoại
của Nepal thường nương nương với chính sách Ấn Độ.
Ăn uống
Tại sao thức ăn Nepal nghèo nàn? Là vì trái với
người Việt nhiều tài nguyên hồ ao, biển cả, không
kiêng cữ, ăn đủ thứ còn người Nepali kiêng không ăn
thịt bò vì thờ bò như Ấn Độ, không nuôi heo vì cũng
chịu ảnh hưởng Hồi giáo, không biển nên không có cá,
sông ngòi chỉ là thác ghềnh. Thỉnh thoảng giết dê mà
thôi. Thức ăn quanh quẩn chỉ cơm món đậu, khoai
tây...Kathmandu thì gì cũng có vì là thủ đô, có khách
sạn Sheraton, có trường học quốc tế. Đặc biệt ở các
siêu thị tại Kathmandu, người ta bán bufsteak (từ
trâu) chứ không phải beefsteak
Họ ăn bốc, không dùng đủa (như ở Ấn Độ vậy), ẩm thực
có thể kể món dhal bhaat tarkaari, nghĩa là đậu,
cơm, rau cải pha cari, achaar (gia vị hơi cay),
momos (một loại bánh bao)...
Chữ viết
Mo Népali Siktshou (Tôi học tiếng
Népal)
Chữ viết căn cứ vào chữ Phạn nghĩa là viết chỉ cần
vài chục chữ là đánh vần viết được ngay, không phải
như tiếng Tàu mà mỗi tiếng phải có mỗi chữ, nên phải
thuộc cả vài ngàn chữ mới đọc được tiếng Hán.
Còn tiếng Nepali chỉ cần học chừng vài tháng là đọc
được viết được ngay. Chữ Phạn chính là nguồn gốc của
các chữ Thái lan, chữ Miên, chữ Lào
Tôn giáo
Tôn giáo thì 88% là theo Ấn độ giáo, 8% theo Phật
giáo, Hồi giáo quảng 3%
Nepal vì nhiều di sản văn hoá tôn giáo nên cũng là
nơi hành hương hàng năm của hàng chục ngàn người mộ
đạo như ngưòi Nhật, Đại hàn, Thái Lan và gần đây hơn
là Phật tử Việt Nam ở nhiều nơi trên thế giới tụ tập
về Vườn Lâm Tì Ni, chỗ đức Phật sinh ra đời .
Gần Kathmandu cũng có nhiều đền thờ như
Pashupatinath, Godnath và Swayambhunath. Một vài đền
cổ thờ các vị nữ thần ở Patan, ở Bhaktapur không xa
Kathmandu bao nhiêu .
Ngoài Ấn độ giáo, Nepal sau này được tiếp xúc với
thêm Phật Giáo Tây Tạng vì có nhiều nhà sư Tây Tạng
đã thoát chạy tị nạn khi Trung Quốc tấn công Tây
Tạng khiến Đức Dalai Lama hiện nay phải băng đồng,
băng núi trốn qua Nepal rồi từ dó qua Ấn Độ. Hiện có
nhiều người tị nạn Tây Tạng ở Nepal, trong đó nhiều
tu sĩ.
Leo núi
Núi Everest là núi phía Đông Bắc Kathmandu, ngoài leo
núi , còn có thể đi thăm bằng máy bay nhỏ lượn quanh
núi để quay phim, chụp hình
Cao gần 8000m, núi Everest là đỉnh nhìn về Bắc là
Tây Tạng, nhìn về Nam là Nepal. Những dân Sherpa
chuyên làm nghề cửu vạn, tải sau lưng những gùi vật
dụng cho nhiều đoàn thám hiểm lực lưỡng leo núi: có
đoàn từ Âu Châu, có đoàn Mỹ, có đoàn Nhật... Có
nhiều người chết khi leo núi Everest, có khi vì
không quen với những vấn đề không khí rất loãng,
thiếu oxy ở cao độ, có khi chết vì nạn chuồi tuyết
lăn; tóm lại không phải leo núi là thành công đâu .
. Lúc tôi ở Nepal, có cựu Tổng Thống Carter cũng có
lần leo núi, nhưng không thành công, nhà vua Nepal
phải cho trực thăng lên đón về cùng với đám cận vệ !
(Nhà vua này sau bị con giết và người con cũng tự
vẫn bằng súng luôn )
Ngoài núi Everest ra, còn có núi Annapurna, gần
Pokhara. Pokhara cũng là một thành phố quan trọng
của Nepal. Thành phố này có nhiều dân tị nạn Tây
Tạng và vì qua đây từ những đợt đầu di cư tị nạn từ
những năm 1957 nên họ đã có vài cơ sở kinh doanh như
khách sạn ở đâỵ
Chủng tộc
Nepal có nhiều chủng tộc: chủng tộc Newar ở thung
lũng Kathmandu.
Tộc Gurung sống trên các ngọn đồi phía Tây Nepal,
quanh núi Annapurna, Gorkha. Họ nói ngôn ngữ gốc
Tạng-Miến, và dạng gốc Mông cổ. Các đoàn lính Gurkha
đóng quân ở Brunei, Ấn Độ là người Gurung. Họ thiện
chiến, có kỷ luật. Theo truyền thống, anh chị em
trong họ có thể lấy nhau. Một định chế đặc thù của
người Gurung này có tên là rodi, một loại câu lạc bộ
trong đó, trai gái khi qúa 12 tuổi phải sống tập thể
làm việc đồng áng chung. Cuộc sống như vậy tạo cơ
hội cho con em họ hàng gặp gỡ, tiến đến hôn nhân
Tộc người Rai ở các ngọn đồi phía Đông Nepal, quanh
Dhankuta, Bhojpur. Trồng lúa trên ruộng bậc thang.
Họ cũng thiện chiến, can đảm như người Gurung nên
cũng đi lính Gurkha và nhờ đó gửi tiền về cho thân
nhân ở nhà quê
Tộc Limbu ở cực đông đồng bằng Terai và phần đông
làm ruộng. Họ không ra đồng áng những ngày mồng 1 và
rằm (kiêng cữ )
Còn nhiều tộc người khác như tộc Magar dân số gần
nửa triệu cũng nói ngôn ngữ gốc Tạng-Miến, khuôn mặt
như người Việt; tộc Tamang, tộc Sherpa ở chân núi
Everest chuyên làm nghề hướng dẫn du khách leo núi
Everest .
Trong dự án tôi làm có vài nhân viên thuộc các tộc
người Rai, ngưòi Tamang
Tuy có đến 36 tộc người khác nhau, có tộc gốc Tây
Tạng-Mông cổ (Tạng Mông) chiếm 20% dân số, có tộc
gốc Ấn-Aryan chiếm 80% dân số và có phong tục tập
quán khác nhau trong quan, hôn, tang, tế nhưng các
điều kiện địa lý đặc thù của Nepal đã làm các tộc
ngưòi này có một hồn riêng biệt, đặc trưng cho căn
tính (identity) Nepal.
Nếp sống thường nhật
Đại đa số nhân dân cũng nghèo như bên Việt Nam vậy;
vì ăn uống thiếu thốn mà làm việc lam lũ, đầu tắt
mặt tối, leo núi, tìm củi, cày cấy nên tuổi thọ
thấp, dưới 50 tuổi. Vì vậy, họ lấy vợ sớm để có con
nối dõi: tục tảo hôn là vì vậy . Một hôm, tôi đang
đi công tác với một đối tác viên cũng chuyên viên
nông nghiệp người Nepalais thấy một em bé xem chừng
15 tuổi dắt một con dê, đi sau là nguời cha; anh
Nepali giải thích với tôi là dê là lễ vật trình nhà
gái đó lúc xin hỏi .. Gia đình Nepal chỉ thích đè
con trai, không thích sinh con gái, hầu như đó là
đặc trưng văn hoá của họ.(và Ấn độ cũng vậy) Vì con
gái khi lấy chồng phải đem nhiều hồi môn cho bên
chồng và khi già yếu, con trai mới tiếp tục công
việc đồng áng đuợc . Người Tây Tạng còn có tục đa
phu, vì không đủ đàn bà.
Di dân
Có lần tôi bị đánh cắp passeport nên phải qua New
Delhi làm sổ thông hành lại. Nhiều công chức Canada
lo về Di Trú ở đây rất bận rộn vì rất đông dân Ấn Độ
muốn xin qua Canada lập nghiệp. Người Sikh được nhập
vào rất đông; họ là người luôn luôn chít khăn trên
đầu. Và vì tôi cũng có dịp đi Ấn Độ để tổ chức khoá
tu nghiệp cho những chuyên viên Nepali trong dự án
K-BIRD sang đó tu nghiệp, nên tôi có để ý là tiểu
bang Ấn Độ có người Sikh (tiểu bang Punjab) là giàu
nhất. Thì ra, họ chuyển tiền từ ngoại quốc về cho
thân nhân.
Tòa Đại Sứ Canada ở Ấn luôn luôn bận rộn và là nơi
bận rộn thứ nhì sau Hong Kong. Dạo đó, Hongkong chưa
chuyển giao quyền hành lại cho Trung Quốc nên dân
HongKong ào ào nối đuôi nhau xin visa vào Canada.
Dân số và kiểm soát sinh đẻ
Dân số là vấn đề trọng tâm hàng đầu của Nepal. Tôi
còn nhớ, tờ báo hàng ngày Nepal Times cứ mỗi ngày,
ghi dân số Nepal trên một tít trang đầụ, như nhắc
nhở mọi người thấy dân số cứ tăng mỗi ngày. Tôi nghĩ
Việt Nam cũng nên làm như vậy, thay vì chỉ trong
thống kê mỗi năm.
Nhiều khi đi núi, gặp các bác sĩ, các y tá cắm lều,
dựng trại, khuyến khích thanh niên các xã lân cận
đến thắt ống dẫn tinh. Các công chức cũng được
khuyến khích đi thắt ống dẫn tinh (vasectomy) sau đó
được nghỉ thêm nhiều tuần và có cho thêm vài trăm
roupie . Roupie là tiền Nepal, một USD bằng 20
roupie. Tôi hỏi Bác sĩ gặp miền núi tại sao không
cột buồng trứng cho đàn bà thì họ trả lời miền núi
không đủ phương tiện vệ sinh vì cột buồng trứng cho
phụ nữ đòi hỏi điều kiện sát trùng tinh vi hơn so
với đàn ông .
Tuy nhiên, số đi thắt ống dẫn tinh và cột buồng
trứng không nhiều so với dân số. Nạn nghèo đói, nạn
mù chữ, giao thông khó khăn cũng là những yếu tố trở
ngại cho chương trình.
Năng lượng: mặt trời, nước
Tại phi trường Surkhet, người ta sử dụng năng lượng
mặt trời để cho chạy các máy truyền tin. Nhờ năng
lượng mặt trời chuyển hoá thành điện. Cũng tại
Surkhet, vì cách xa giao thông nên không có nhà máy
nhiệt điện dùng dầu cặn chạy máy mà có một đập thủy
điện nhỏ để phát điện. Các turbin điện tuy nhỏ nhưng
cũng giúp cho thành phố có ít điện; tuy nhiên, vào
những tháng cuối mùa nắng (3-4). thì nước trong hồ
cạn dần nên không có điện, phải dùng đèn dầu hay
thắp đèn manchon. Tại vài nơi thuận tiện, nông dân
cũng tận dụng một sự chênh lệch mực nước để cho chạy
cái cối xay, phần lớn xay bột bắp, bột gạo, bột mì
Nepal có tài nguyên nuớc phong phú và có nhiều nơi
dễ xây đắp đập thủy điện để xuất cảng điện sang Ấn
Độ
Liên lạc
Liên lạc thì dạo đó làm gì có Internet và điện thoại
di động như bây giờ. Phải viết thư ra bưu điện mua
tem. Tuy nhiên, hàng đêm, dù ở Surkhet rất xa
Kathmandu, tôi vẫn được nghe tiếng Việt qua làn sóng
BBC, Tiếng nói Hoa Kỳ và nhất là Đài tiếng Việt phát
thanh từ Melbourne của Úc vì Nepal nằm trong khu vực
phát tuyến, gần Viẹt Nam nên bắt đài rất dễ
Thời điểm du lịch
Thuận lợi nhất là từ tháng 11 đến tháng 3 vì sau đó
mưa to, gió lớn, mây mù dày đặc, máy bay đáp xuống
phi trường Kathmandu rất khó khăn và cách đây mấy
năm, báo chí đăng tin máy bay Thái Lan chở hành
khách từ Bangkok đâm đầu vào núi bao quanh thung
lũng nàỵ
Lời kết
Từ ngày dạy ở cao đẳng cũng tưởng cuộc đời mình chỉ
gắn bó với nước Việt thế mà thời cuộc đưa đẩy, tôi
lại đi làm việc ở xứ đèo heo hút gió này nhưng bù
lại biết thêm cả một nền văn hoá sâu sắc Ấn Độ, thấy
được bằng mắt trần những ngọn núi cao như Annapurna,
Everest mà lâu nay chỉ nhìn qua hình carte postale.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, bạn bè Nông
Nghiệp giờ đây chân trời góc biển, người miền băng
tuyết, kẻ ở trời Âu, người rừng già Phi châu, kẻ còn
ở lại, người đã đi vào thế giới vĩnh hằng thật là
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Trong thời gian làm việc ở Nepal tôi có dịp đi
Calcutta ở Ấn Độ và có ghé thăm trại người cùi của
bà mẹ Teresa và thấy trên bức tường các dòng chữ sau
đây :
Cuộc sống như một nỗi buồn, hãy vượt qua nó
Cuộc sống như một cuộc tranh đấu, hãy chấp nhận nó
Cuộc sống như một sự phiêu lưu, hãy can đảm lên
Cuộc sống như một thử thách, hãy đáp ứng nó
Cuộc sống như một cơ may, hãy nắm lấy nó
Mẹ Teresa đã dâng hiến trọn cuộc đời mình cho tình
thương.
Xin thắp nén hương lòng cầu nguyện cho những bạn bè,
sinh viên cũ, sống khôn thác thiêng hộ trì cho những
kẻ còn sống. Xin nguyện cầu cho những người còn trên
cõi đời này nối lại tình thâm trên quãng đời trước
mắt rất ngắn ngủi còn lại, dẫu lìa ngó ý còn vương
tơ lòng.
[*] Tác giả bài này trước đây bắt đầu dạy tại trường
Cao đẳng Nông Nghiệp Saigon vào năm 1965. Môn dạy là
Thổ Nhưỡng học và còn nhớ khoá đó bắt đầu giảng dạy
ở khu Thành Cộng Hoà cũ, nơi trú đóng của Lữ đoàn
Liên Binh phòng vệ Phủ Tổng Thống.
Sau năm 1963, Thành Cộng Hoà này được giao lại cho
dân sự và là nơi có các phân khoa đại học như Đại
học Dược, Đại học Văn Khoa và Nông Nghiệp
|