Tài liệu về ý niệm dân chủ
Viện Nhân Quyền VN
A- Một lối định nghĩa "dân chủ" có tính cách phổ thông
- Dân chủ : nguyên tự của tiếng gốc Hy lạp:
démocratie - demos = dân; kratos : quyền hành
Thể chế dân chủ : chính quyền của dân do dân; chủ quyền của nhân dân.
Lề lối tổ chức chính trị nầy mặc nhiên đi đôi với một cộng đồng xã hội (quốc gia, hoặc liên quốc gia, hay quốc tế) trong
đó mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và có những quyền hạn y như
nhau. Những quyền lợi cá biệt dành cho một số công dân phải được các
thành phần xã hội chuẩn nhận (minh nhiên hoặc mặc nhiên), vì
trách vụ hoặc bổn phận đặc biệt; nhưng mọi công dân không phân biệt
đều có thể được ủy thác những quyền hạn nầy: mọi người dân đều có thể
tham gia vào các chức năng điều hành cộng đồng; không một điều luật, một
thói quen hay một lối xử sự nào ngăn cản tận căn khả năng tham gia vào
các trách vụ xã hội của mọi người dân, hoặc thiết định một lớp người cai
trị và một lớp người bị trị riêng biệt.
Thể chế dân chủ tất yếu phải thực hiện và phát triển một số định chế tương hợp:
Mọi
nền dân chủ phải chống lại các hình thức nô lệ. Người công dân cần được
hỗ trợ để tài bồi cuộc sống tinh thần và đạo đức, có đủ khả năng để
thực thi một cách hữu hiệu và trách nhiệm các phần vụ được cộng đồng
trao phó.
Do đó, một nước dân chủ có bổn phận phải thực hiện các định chế cần thiết :
1. Các cơ sở đào tạo và giáo dục.
2. Các cơ sở xã hội và liên đới, nhắm xóa giảm các ngăn cách xã hội ngược lại với đòi hỏi về bình đẳng của mọi công dân.
3. Hình thức chính quyền dân chủ, nghĩa là lề lối tổ chức cộng hòa và phổ thong bầu phiếu.
4. Cổ
súy tinh thần dân chủ, phát triển văn hóa dân chủ. Đây là điều kiện
quan trọng hơn cả cơ cấu tổ chức nhất thời nào đó. Vì không thấm nhuần
tinh thần dân chủ và phát triển văn hóa dân chủ, thì người ta có thể
nhân danh đa số hoặc nhân danh một ít chiêu bài ý hệ nhất thờI, lạm
dụng các phương tiện truyền thông các lề lối tổ chức dân chủ, để lừa bịp
dư luận, dấy lên môt loại bạo quyền ghê rợn hơn các thể chế "Thần
quyền, quân chủ, độc tài..." trước đây.
B- Dân chủ và nhân quyền trong xã hội hiện nay
Quyền tham gia
Mọi công dân có quyền tham gia vào đời sống cộng đồng: đó là xác tín được mọi người chia sẻ. Tuy
vậy, quyền đó không còn nghĩa gì khi tiến trình dân chủ mất hết sức
năng động của nó do nạn phe phái và các hiện tượng tham nhũng không
những chúng ngăn cản việc tham gia chính đáng vào việc hành xử chính
quyền, mà còn chận đứng việc sử dụng một cách công bằng các tiện ích và
phục vụ công cộng ngay cả các cuộc bầu cử cũng có thể bị tráo trở để tạo
phần thắng riêng cho một số đảng phái hoặc một số người. Đây là làm tổn
thương cho dân chủ, đưa đến những hậu quả gia trọng. Người công dân
không những có quyền mà còn có bổn phận tham gia; khi họ bị ngăn cản
không thực hiện được quyền và bổn phận nầy, thì họ mất đi hy vọng có thể
can thiệp một cách hữu hiệu và đi vào tình trạng thờ ơ thụ động. Việc
phát triển một hệ thống dân chủ lành mạnh bấy giờ trở nên bất cập thực
sự.
Gần
đây, nhiều biện pháp khác nhau được áp dụng để thực hiện những cuộc bầu
cử chính đáng trong các nước đã gian khổ, cố gắng vất bỏ chế độ độc tài
chuyên chế bước qua một chế độ dân chủ. Hẳn nhiên, những nổ lực đó hữu
ích và hữu hiệu trong những hoàn cảnh khẩn trương; nhưng còn phải đem
lại cho tâm thức người công dân toàn bộ niềm tin tưởng thành thật có sức
đẩy lui một cách dứt khoát các lối thủ thuật gian trá trong phương thức
áp dụng tiến trình dân chủ.
Trong
khuôn khổ cộng đồng quốc tế, các nước và các dân tộc có quyền tham gia
những quyết định thường thay đổi sâu xa nếp sống của họ. Tính cách
chuyên môn có tính cách kỷ thuật của một số vấn đề kinh tế tạo cho người
ta có khuynh hướng chỉ bàn thảo lãnh vực nầy trong các nhóm giới hạn;
nguy cơ ở đây là tập trung quyền chính trị và tài chánh vào tay của một
số chính phủ hoặc nhóm quyền lợi hạn chế. Việc tìm kiếm công ích trên
bình diện quóc gia và quốc tế đòi hỏi phải thực thi rõ rệt quyền của mọi
người được tham gia vào các quyền quyết định liên quan đến họ, ngay cả
trong lãnh vực kinh tế.
(Trích Sứ-điệp của Đức Giáo-hoàng Gioan Phaolô II, nhân ngày Hoà-bình Thế-giới
ngày mồng một tháng giêng năm 1999 "Bí quyết Hòa-bình ..." - Bản dịch Định Hướng)
C. Dân chủ theo cái nhìn của Học-thuyết Xã-hội Công-giáo
I- Sứ điệp Phúc âm và đời sống xã hội
Với
tư cách là chuyên viên về nhân tính, Giáo-hội công giáo qua Học-thuyết
Xã -hội của mình cống hiến toàn bộ những nguyên tắc suy tư và tiêu chuẩn
phán đoán cũng như những chỉ dẫn hành động để nhằm đưa đến những thay
đổi sâu xa trước các hoàn cảnh khốn cùng và bất công, phục vụ lợi ích
chân thật của mọi người.
Những nguyên tắc cơ bản
73. Điều
răn tối thượng của tình yêu dẫn đến việc nhìn nhận một cách đầy đủ phẩm
giá của mỗi con người, được tác tạo giống hình ảnh Thiên Chúa. Những
quyền lợi và bổn phận tự nhiên phát sinh từ phẩm giá đó. Trong ánh sáng
của chân lý, con người là hình ảnh Thiên Chúa, sự tự do là giá trị tối
thượng thiết yếu của nhân vị được khai mở trong tất cả chiều kích sâu xa
của nó. Các nhân vị là hữu thể tích cực và trách nhiệm của cuộc sống xã
hội .
Nguyên tắc về liên đới (principe de solidarité) và nguyên tắc về ủy nhiệm (principe de subsidiarité) liên hệ mật thiết với nền tảng nầy, tức là nhân phẩm.
Nguyên
tắc đầu thúc đẩy con người cộng tác với kẻ khác để phục vụ công ích
xã hội, ở mọi cấp độ và địa hạt . Từ đó ta thấy học thuyết của Giáo-hội
chống lại tất cả các hình thức cá nhân chủ nghĩa trong các lý thuyết xã
hội và chính trị.
Nguyên
tắc thứ hai cho thấy quốc gia cũng như xã hội không bao giờ có thể thay
thế được sáng kiến và trách nhiệm của cá nhân hoặc các đoàn thể trung
gian trong các phạm vi sinh hoạt mà họ có thể hành động, cũng như không
thể phá bỏ môi trường và điều kiện cần thiết để họ thực thi quyền tự do
của mình . Từ đó ta thấy, học thuyết xã hội của Giáo-hội chống tại tất
cả các hình thức chủ nghĩa tập thể hóa.
Những tiêu chuẩn phán đoán
74. Những nguyên lý nầy đặt nền tảng cho các tiêu chuẩn để phán đoán khi đối diện với các hoàn cảnh, các cơ cấu và hệ thống xã hội.
Vì vậy Giáo-hội không ngần ngại lên tiếng tố giác những hoàn cảnh của đời sống xúc phạm đến nhân phẩm và tự do con người.
Những
tiêu chuẩn nầy cũng giúp ta đánh giá các cơ cấu. Cơ cấu là toàn bộ các
định chế và ứng dụng mà người ta chấp nhận hoặc tạo ra trên bình diện
quốc gia và quốc tế để hướng dẫn hoặc tổ chức đời sống kinh tế, xã hội
và chính trị. Tự bản chất cơ cấu cần thiết cho đời sống xã hội, nhưng
thường chúng có khuynh hướng đóng khung cứng ngắt và trở thành những bộ
máy mù quáng hầu như độc lập với ý chí con người, làm tê liệt hoặc làm
suy đồi công cuộc phát triển xã hội, tạo ra bất công. Tuy nhiên con
người luôn có khả năng và trách nhiệm để thay đổi các chế độ đó, chứ
không phải nhìn các cơ chế đó như là một hình thức biểu lộ của một thứ tất định chủ nghĩa về lịch sử.
Các
định chế và luật lệ, một khi thích ứng với luật tự nhiên và hướng đến
công ích, lại là những bảo đảm cho tự do của nhân vị và làm cho sự tự do
đó được triển nở. Người ta không thể cứ lên án các bình diện chế tài
của luật pháp, cũng như sự ổn định của chính phủ xứng hợp với chức phận
của mình. Do đó, ta có thể nói đến cơ chế ghi khắc dấu tích của tội lỗi,
nhưng không thể lên án các cơ chế một cách chung.
Các tiêu chuẩn phán đoán cũng liên quan đến các hệ thống kinh tế, xã hội và chính trị. Học
thuyết xã hội của Giáo-hội không đề xuất một hệ thống cá biệt nào,
nhưng dưới ánh sáng của các nguyên tắc nền tảng, trước hết nó giúp ta
thấy được trong mức độ nào các hệ thống hiện hành thích hợp hay không
thích hợp đói với những đòi hỏi của nhân phẩm.
Nhân vị có ưu thế trên các cơ chế
75. Hẳn
nhiên, Giáo-hội ý thức được sự phức tạp của các vấn đề mà xã hội phải
đương đầu và những khó khăn để tìm ra những giải pháp thích hợp. Tuy
nhiên Giáo-hội nghĩ rằng trước hết cần kêu gọi đến những khả năng siêu
nhiên và đạo lý của con người cũng như sự canh tân trường kỳ cuộc sống
nội tâm nếu muốn có được những thay đổi về kinh tế và xã hội thực sự
phục vụ con người.
Việc
ưu tiên đề cao các cơ cấu và tổ chức kỹ thuật, coi thường nhân vị và
các đòi hỏi của nhân phẩm là lối phát biểu của một nền nhân học duy vật
đi trái với việc xây dựng một trật tự xã hội công bằng .
Tuy
nhiên, việc ưu tiên nhìn nhận sự tự do và hoán cải nội tâm không loại
bỏ sự cần thiết phải xúc tiến công cuộc thay đổi các cơ chế bất công. Vì
thế những ai chịu đựng sự áp bức do quyền lực của tiền tài hoặc chính
trị có quyền hành động để có được những cơ cấu và định chế biết tôn
trọng những quyền lợi của mình, bằng những phương thức mà đạo đức cho
phép, việc đó hoàn toàn chính đáng.
Nhưng
phải hiểu rằng các cơ chế được thành lập nhằm phục vu lợi ích con
người, tự chúng một mình không có đủ khả năng để đem lại mục tiêu mong
muốn, cũng như không thể bảo đảm việc thực thi đúng mức. Trong một vài
nước, nạn tham nhũng nơi kẻ cầm quyền, nạn quan liêu cậy quyền phá tán
đời sống lành mạnh của xã hội là một bằng cớ. Đạo đức xã hội bây giờ là
điều kiện cho sức khoẻ của xã hội. Do vậy, cần có sự hối cải, canh tân
tâm hồn con người đồng thời với việc cải tiến các cơ chế, bởi vì tội lỗi
là căn nguyên tạo ra các hoàn cảnh bất công, là hành vi của ý chí phát
xuất từ tự do của con ngươi; đây là ý nghĩa nguyên thủy và thật sự của
tội lỗi. Chỉ vì tội lỗi tràn vào cơ chế, bấy giờ nó mang một ý nghĩa phụ
thuộc và gián tiếp, nên ta có thể gọi hiện tượng đó là "tội lỗi xã hội" .
Ngoài
ra trong tiến trình giải phóng, ta không thể bỏ quên hoàn cảnh lịch sử
của đất nước dân tộc và bản sắc văn hóa của nó. Nên ta không thể thụ
động chấp nhận và lại càng không thể nỗ lực hỗ trợ các nhóm người chiếm
đoạt bộ máy nhà nước bằng vũ lực hoặc đánh lừa dư luận, áp đặt trên các
nước một ý hệ xa lạ đi ngược lại các giá trị văn hóa chân thật của dân
tộc mình . Về điểm nầy, cần nhắc nhở trách nhiệm nặng nề của giới trí
thức trên bình diện đạo lý và chính trị.
Những chỉ dẫn hành động
76. Những
nguyên lý căn bản và những tiêu chuẩn phán đoán soi dẫn các chỉ dẫn
hành động: bởi vì công ích của xã hội loài người nhằm phục vụ con người
cụ thể, các phương thế hành động phải xứng hợp với nhân phẩm con người
và xúc tiến việc giáo dục về tự do. Đó là một tiêu chuẩn phán đoán và
hành động chắc chắn. Không thể có được giải phóng nếu ngay từ đầu các quyền tự do không đuợc tôn trọng.
Cần
tố cáo ảo tưởng đem lại bao tàn phá mở đường cho nhiều hình thức vong
nô, ảo tưởng dựa vào bạo lực một cách qui mô được trình bày như là con
đường tất yếu phải đi để hướng đến công cuộc giải phóng. Ta cũng phải tố
cáo quyết liệt không kém đối với bạo lực do những kẻ lắm tiền nhiều của
đang đè bẹp kẻ nghèo khổ, việc sử dụng bộ máy cảnh sát công an một cách
hồ đồ, cũng như tất cả các hình thức bạo lực phát xuất từ hệ thống
quyền hành độc tôn của nhà nước. Trong
các lãnh vực nầy, cần rút tỉa những bài học của các kinh nghiệm tang
thương mà con người đã phải gánh chịu và còn chứng kiến trong lịch sử
của thế kỷ nầy. Ta cũng không thể chấp nhận thái độ thụ động đồng loã
với tội lỗi của các chính quyền trong một số các cơ chế dân chủ, vì tại
các xứ nầy một số lớn đang sống trong những diều kiện khó mà nói được là
thích hợp với những đòi hỏi về nhân quyền, cá nhân cũng như xã hội đã
từng được ghi trong hiến pháp của họ.
MỘT CUỘC ĐÃU TRANH CHO CÔNG LÝ
77. Khi
hỗ trợ việc thành lập và đẩy mạnh sinh hoạt các hội đoàn, cũng như các
công đoàn để đãu tranh bảo vệ các quyền hạn và lợi ích chính đáng của
giới lao động và xây dựng công lý xã hội, không phải như thế là Giáo-hội
chấp nhận lý thuyết chủ trương lấy đãu tranh giai cấp làm đòn bẩy tạo
ra cơ cấu cho cuộc sống xã hội. Hành động mà Giáo-hội chủ xướng không
phải là cuộc đãu tranh của giai cấp nầy chống lại giai cấp khác nhằm mục
tiêu tiêu diệt kẻ đối phương; hành động đó không phát xuất từ thái độ
buông xuôi trước cái mà người ta hiểu là luật tất yếu của lịch sử. Nhưng
nó là một cuộc đãu tranh cao cả và có suy xét nhằm kiến tạo sự công
bằng và liên đới xã hội . Người Kitô hữu luôn yêu chuộng đường lối đối thoại và bàn luận với nhau.
Chúa
Kitô đã ban cho chúng ta điều răn yêu mến kẻ thù của chúng ta . Sự giải
phóng trong tinh thần của Phúc-âm không thể cùng đi với sự hận thù kẻ
khác, dù cá nhân hay tập thể, ngay cả sự thù hận kẻ tình địch của mình.
Huyền thoại cách mạng
78. Những
hoàn cảnh bất công trầm trọng cần đến những thay đổi sâu xa và can
cường, xóa bỏ những đặc ân không thể nào biện minh được. Nhưng ai không
tín nhiệm vào con đường cải cách để chủ xướng một huyền thoại cách mạng
không những người đó nuôi ảo vọng về một sự thay đổi ngoạn mục chỉ cần
dẹp bỏ một tình trạng bất công nầy là có ngay một xã hội đày nhân tính
hơn, mà còn tiếp tay tạo ra những chế độ độc tài . Đấu tranh chống những
hình thức bất công chỉ có nghĩa khi nó hướng đến việc thiết lập một
trật tự xã hội chính trị mới thích hợp với các đòi hỏi của công lý. Ngay
từ đầu công lý đã phải có mặt trong các giai đoạn thành lập. Nói cách
khác, có một nền đạo lý trong việc sử dụng các phương tiện .
Giải pháp tối hậu
79. Những
nguyên tắc đó phải đặc biệt áp dụng trong trường hợp tối hậu cần đến
đãu tranh võ trang, mà giáo huấn Giáo-hội định chuẩn như là phương thức
cuối cùng nhằm chấm dứt " một sự độc tài tàn bạo hiển nhiên và kéo dài,
vi phạm một cách trầm trọng các quyền căn bản của con người và làm tổn
hại nặng nề công ích của một xứ sở" . Dù
sao việc áp dụng cụ thể phương thế nầy chỉ có thể đặt ra sau khi đã
phân tích thật kỹ lưỡng tình hình. Thật ra, với sự phát triển liên tục
các kỹ thuật được sử dụng và vì các mối nguy hiểm quá trầm trọng khi
phải nại đến vũ lực, ngày nay việc mà người ta quen gọi là "chống đối bất bạo động" mở ra một đường lối thích ứng với các nguyên tắc luân lý và không kém phần kiến hiệu.
Không
bao giờ ta có thể chấp nhận, từ phía kẻ cầm quyền cũng như người chống
đối, việc sử dụng các phương tiện gây tội ác, như giết hại dân chúng,
tra tấn, các phương pháp khủng bố và âm mưu giết hại người khác trong
các cuộc biểu tình của quần chúng. Những chiến dịch bỉ ổi nhằm bôi nhọ,
hủy hoại thân xác hay tổn hại đến tinh thần của bất cứ ai đều không thể
nào chấp nhận được.
Vai trò giáo dân
80. Những
vị chăn dắt Giáo-hội không nên trực tiếp can thiệp vào việc xây dựng
chính trị và tổ chức đời sống xã hội. Phận vụ đó thuộc về ơn gọi của
giáo dân. Họ cần hành động
theo sáng kiến riêng của mình cùng với đồng bào của họ . Họ phải hoàn
thành phận vụ nầy, ý thức rằng cứu cánh của Giáo-hội là phổ biến Nước
Chúa Kitô đẻ tất cả mọi người được thật sự xếp đặt theo tinh thần của
Chúa Kitô .
Như thế công cuộc cứu độ gắn chặt với phận vụ cải tiến và nâng cao các điều kiện sinh hoạt của con người trần thế.
Sự
phân biệt giữa trật tự siêu nhiên của ơn cứu độ và trật tự trần thế của
sinh hoạt con người phải được nhìn từ bên trong ý định duy nhất của
Thiên Chúa, là qui kết mọi sự vào Chúa Kitô. Vì vậy, trong mọi địa hạt
đạo đời, người giáo dân, vừa là tín hữu vừa là công dân phải luôn được
hướng dẫn bởi ý thức Kitô giáo .
Hành
động xã hội hàm ngụ có nhiều giải pháp cụ thể nhưng luôn nhắm đến công
ich và thích hợp với sứ điệp của Phúc âm và giáo huấn của Giáo-hội. Phải
hành động thế nào để sự khác biệt về quan điểm không làm hại đến ý
nghĩa của sự hợp tác, và tạo ra tình trạng tê liệt không thể sinh hoạt
hoặc hoang mang bất động trong cộng đồng người Kitô hữu.
Sư
hướng dẫn của Giáo-hội qua học thuyết xã hội phải gây hứng khởi để sở
đắc các kiến thức kỹ thuật và khoa học cần thiết. Nó cũng phải giúp ta
trau giồi tư cách đạo đức và đào sâu đời sống siêu nhiên. Khi cống hiến
các nguyên tắc và lời khuyên bảo đạo đức, học thuyết nầy không vì thế mà
quên đi việc giáo dục cần thiết để có được sự cẩn trọng trong chính trị
rất cần cho việc cai trị và quản lý các thực tại của đời sống con
người.
II-Những đòi hỏi của Phúc-âm về việc thay đổi sâu xa
Cần thiết phải có sự thay đổi về văn hóa
81. Ngày
nay hơn bao giờ hết, Kitô hữu đang chứng kiến sự thách đố phải cố sự
tâm thực hiện nền văn minh tình thương, tóm kết tất cả gia sản văn hóa
đạo đức của Phúc-âm. Phận vụ đó đòi hỏi cần phải suy tư lại mối tương
quan giữa điều răn tối thượng về tình yêu với trật tự xã hôi cũng như
tất cả các nét phức tạp của nó.
Cùng
đích trực tiếp của sâu xa đó là việc kiến tạo thực thi các chương trình
hành động táo bạo nhằm giải phóng từng triệu con người đang bị khống
chế bởi hoàn cảnh áp bức về kinh tế, xã hội và chính trị không thể chịu
đựng nổi.
Hành
động đó phải bắt đầu bằng một nổ lực giáo dục thật qui mô, lớn lao:
Giáo dục để thích ứng với nền văn minh lao động, giáo dục hướng đến liên
đới, làm sao mọi người cập nhật nội dung của văn hóa.
(Trích trong Tự-do Kitô-giáo và Giải-phóng - Huấn thị của Thánh-bộ Đức-tin
Định Hướng Tùng-thư xuất bản, 1993, tr. 100-108