Jeff D. Colgan & Robert O. Keohane
Đỗ Kim Thêm dịch
Khuôn khổ tự do bị lũng đoạn Cần cải cách ngay hoặc nhìn nó suy tàn
Trước năm 2016, các cuộc tranh luận về trật tự toàn
cầu chủ yếu xoay quanh vấn đề cấu trúc và câu hỏi là liệu Hoa Kỳ có nên
chủ động lãnh đạo cấu trúc này hoặc là cần phải giảm bớt, rút khỏi các
liên minh và các cam kết khác của mình không.
Nhưng trong năm qua hoặc
hai năm qua, rõ ràng là những cuộc tranh luận này đã bỏ qua một điểm
chính: những thách thức về chính sách đối ngoại quan trọng hiện nay
thành hình ít do các vấn đề giữa các quốc gia hơn là do các vấn đề nội
chính. Đây là một bài học về sự hồi sinh đáng ngạc nhiên và đột ngột của
trào lưu dân túy cho các nước phương Tây, một xu hướng mà năm ngoái đã
thể hiện mạnh mẽ nhất trong quyết định của Vương quốc Anh để rời khỏi cơ
quan Liên Âu, còn gọi là Brexit, và trong cuộc bầu cử Donald Trump là
tổng thống Mỹ.
Có thể khó xác định được ý nghĩa của "trào lưu dân
túy" một cách rõ ràng, nhưng một nhãn hiệu quan trọng nhằm nhận diện nó
là niềm tin rằng mỗi quốc gia đều có "các người dân chính thống", họ bị
thúc thủ bởi sự thông đồng của lực lượng ở nước ngoài và các tầng lớp
thượng lưu ở trong nước chạy theo tư lợi. Một nhà lãnh đạo dân túy tuyên
bố mình là đại diện cho dân chúng và tìm cách làm suy yếu hoặc hủy hoại
các thể chế như cơ quan lập pháp, tư pháp và báo chí và tháo bỏ những
rào cản ngoại lai để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Trào lưu dân túy mang
nhiều hương vị thuộc về ý thức hệ. Phe theo dân túy cánh tả muốn "lấy
của nhà giàu" khi họ nhân danh sự bình đẳng; phe theo dân túy cánh hữu
muốn loại bỏ những trở ngại cho sự giàu có khi họ nhân danh tăng trưởng.
Do đó, trào lưu dân tuý được định nghĩa là do một quan điểm chuyên biệt
về phân phối kinh tế nhưng còn là niềm tin nơi các nhà lãnh đạo cứng
rắn và không thích các giới hạn về chủ quyền tối thượng và các thể chế
mạnh mẽ.
Tất nhiên, các thể chế như vậy là những nét chính của
khuôn khổ tự do: chúng ta hãy nghĩ đến cơ quan Liên Hiệp Quốc, Liên Âu,
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các liên minh chính yếu như Liên
minh Phòng thủ Bắc Đại Tây Dương (NATO). Thông qua các thể chế này,
khuôn khổ do Washington lãnh đạo khuyến khích hợp tác đa phương về các
vấn đề từ an ninh đến thương mại và biến đổi khí hậu. Từ năm 1945, khuôn
khổ này đã giúp bảo vệ hòa bình giữa các cường quốc. Ngoài các thành
tựu khác của khuôn khổ này, sự ổn định mà nó mang lại đã làm nản lòng
các nước như Đức, Nhật, Ả-rập Xê-út và Hàn Quốc trong việc mua các vũ
khí hạt nhân.
Khía cạnh xây dựng hòa bình này của khuôn khổ tự do
đã là một thành công phi thường. Đó cũng là cách mà khuôn khổ này cho
phép thế giới đang phát triển thăng tiến, với hàng tỷ người đang thoát
khỏi tình trạng nghèo đói tồi tệ và các tầng lớp trung lưu mới nổi lên
trên khắp thế giới. Nhưng đối với tất cả thành công của khuôn khổ này,
các thể chế của nó đã trở thành xa rời công chúng ở những quốc gia đã
tạo ra chúng. Kể từ đầu những năm của thập niên 1980, những ảnh hưởng
của chương trình nghị sự kinh tế tự do mới đã xói mòn hợp đồng xã hội mà
trước đây đã bảo đảm hỗ trợ chính trị quan trọng cho khuôn khổ này.
Nhiều cử tri thuộc tầng lớp trung lưu và lao động tại Vương quốc Anh,
Hoa Kỳ và những nơi khác đã bắt đầu tin rằng là hệ thống này bị lũng
đoạn; điều mà họ cũng có nhiều biện minh hợp lý.
Nhiều người trong chúng ta đã không chỉ phân tích
toàn cầu hóa và khuôn khổ tự do mà còn ca ngợi cả hai cùng chung chiu
một số trách nhiệm về sự trỗi dậy của trào lưu dân túy. Chúng ta đã
thiếu quan tâm khi chủ nghĩa tư bản chiếm quyền kiểm soát toàn cầu hóa.
Các tầng lớp tinh hoa kinh tế đã định hình cho thể chế quốc tế để phục
vụ cho tư lợi và tạo ra mối liên hệ vững chắc giữa chính họ và các chính
phủ. Những người dân bình thường đã bị bỏ rơi. Đã đến lúc phải thừa
nhận thực tế này và thúc đẩy các chính sách có thể cứu vãn khuôn khổ tự
do trước khi quá muộn.
Những chiếc thuyền đã không nổi lên
Năm 2016, hai quốc gia đã đóng góp nhiều nhất để xây
dựng khuôn khổ tự do là Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, nay họ dường như quay
lưng lại với vấn đề này. Tại nước Anh, chiến dịch Brexit thành công khi
tập trung vào việc khôi phục lại chủ quyền tối thuọng của nước Anh; tại
nước Mỹ, vận động tranh cử Trump rõ ràng mang trong giai điệu và nội
dung về tinh thần dân tộc. Không có gì là ngạc nhiên, điều này đã gây ra
phản ứng mạnh mẽ ở những nơi còn tiếp tục coi trọng khuôn khổ tự do,
thí dụ như tại Đức: trong một cuộc thăm dò do nhật báo Die Welt công bố
vào tháng Hai chỉ ra rằng chỉ có 22% người Đức tin rằng Hoa Kỳ là một
đồng minh đáng tin cậy, giảm đi từ 59% chỉ trong ba tháng trước đó,
trước chiến thắng của Trump - giảm đến 37 điểm.
Các hiện tượng Brexit và Trump phản ánh sự đổ vỡ
trong hợp đồng xã hội đến cốt lõi của nền dân chủ tự do: những người
thành công trong một xã hội dựa trên thị trường, họ hứa đảm bảo rằng
những người bị thiệt thòi bởi các lực lượng thị trường không bị tụt hậu
quá xa. Nhưng họ đã mất đi những gì họ đã có. Từ năm 1974 cho đến năm
2015, thu nhập trung bình thực sự trong gia đình cuả người Mỹ không có
bằng trung học đã giảm gần 20%. Và ngay cả những người có bằng tú tài,
nhưng không có trình độ đại học, thu nhập thật sự trung bình trong gia
đình giảm mạnh 24%. Mặt khác, những người có trình độ cao đẳng thì thu
nhập và tài sản của họ mở rộng. Trong số những người Mỹ này, thu nhập
gia đình trung bình thật sự tăng 17%; những người có bằng tốt nghiệp
thậm chí còn tốt hơn.
Như các nhà khoa học chính trị Robert Putnam và
Margaret Weir đã ghi nhận, các xu hướng như vậy đã dẫn tới những mức
sống của người Mỹ khác nhau trong các thế giới biệt lập. Người khá giả
không sống gần với người nghèo hoặc tương tác với họ trong các định chế
công cộng nhiều như họ thường làm. Sự tự tách biệt này đã làm hao mòn
tình liên đới trong sinh hoạt công dân Mỹ: ngay cả khi công nghệ truyền
thống đã kết nối mọi người lại với nhau như chưa bao giờ có trước đây,
các tầng lớp xã hội khác nhau đã tách xa nhau và nay trở nên xa lạ với
nhau. Và vì giới tinh hoa trên thế giới đang thành công, nhiều người đã
đi đến kết luận là - thường thì họ không nhận ra điều đó - sự đoàn kết
không quan trọng đối với một nền dân chủ hoạt động hữu hiệu.
Trong những thập niên gần đây, giới ưu tú đã tận dụng
lợi thế của khuôn khổ tự do toàn cầu - đôi khi họ vô tình, đôi khi họ
cố ý - để chiếm đoạt hầu hết các thu nhập và lợi nhuận, và họ không chia
sẻ cho các tầng lớp trung lưu và thấp hơn. Những người Mỹ có trình độ
học vấn cao và giàu có đã thúc đẩy hoặc chấp nhận các chính sách thuế
lũy thoái, các hiệp định thương mại và đầu tư nhằm khuyến khích doanh
nghiệp thuê nhân công nước ngoại, và tài trợ kinh phí quá ít trong việc
giáo dục phổ thông và đại học. Kết quả của các chính sách như thế đã làm
suy yếu những gì mà nhà khoa học chính trị John Ruggie từng gọi là "chủ
nghĩa tự do ràng buộc": dù trong một khuôn khổ toàn cầu bao gồm các xã
hội theo thị trường tự do, nhưng họ vẫn giữ được các chính sách phúc lợi
và các chính sách thị trường lao động, nó cho phép tái huấn luyện những
người có kỹ năng bị lỗi thời, khoản bồi thường cho những người bị thua
thiệt vì tự do thương mại và xác nhận giá trị cá nhân của mọi công dân,
ngay cả khi họ không có năng suất cao về mặt kinh tế. Tầng lớp ưu tú đã
đã thúc đẩy và hỗ trợ phần đầu của viễn kiến này, các thị trường tự do,
mở rộng các biên giới và chủ nghĩa đa phương - nhưng trong những năm của
thập niên 1970 và thậm chí nhiều hơn trong những năm của thập niên
1980, họ bắt đầu lơ là các phần khác của việc thương lượng: một mạng
lưới an toàn vững chắc cho những người đấu tranh. Sự mất cân bằng này đã
làm suy yếu sự hỗ trợ từ trong nước cho tự do thương mại, các liên minh
quân sự và nhiều thứ khác.
Đến năm 2016, cái giá phải trả cho hợp đồng xã hội bị
phá vỡ đã tới ở cả hai bờ Đại Tây Dương. Và ngay cả đến bây giờ, nhiều
nhà quan sát xem nhẹ mối đe dọa thay đổi chính trị mà nó đặt ra cho
khuôn khổ tự do. Một số người cho rằng những lợi ích kinh tế của hội
nhập toàn cầu áp đảo đến nỗi các chính phủ các nước sẽ tìm cách trở lại
chủ nghĩa tự do, bất kể là dùng xảo biện trong cuộc vận động tranh cử và
theo quan điểm dân túy nào đi nửa. Nhưng thực tế là các chính trị gia
đáp ứng được các khích lệ bầu cử, mà ngay cả khi có những động lực đó
khác biệt đáng kể so với lợi ích lâu dài của đất nước - và trong những
năm gần đây, nhiều cử tri đã tham gia vào việc chống đối toàn cầu hóa và
trật tự tự do theo tinh thần dân túy.
Hơn nữa, giới lãnh đạo doanh nghiệp và các thị trường
chứng khoán, vốn có thể được kỳ vọng là kiềm hãm được cuồng nhiệt của
trào lưu dân túy, thay vì thế, phần lớn họ nhận các đề nghị giảm thuế và
không có việc giảm công chi đi kèm theo. Điều này một cái nhìn thiển
cận. Tận dụng nhiều hơn những lợi ích của toàn cầu hóa mà tầng lớp trung
lưu và lao động phải chịu tổn hại có thể làm suy yếu hơn nữa sự hỗ trợ
chính trị cho chuỗi cung ứng kết hợp và vấn đề nhập cư mà nền kinh tế Mỹ
bị phụ thuộc. Quan điểm này gợi cho chúng ta nhớ lại cách mà các nhà
quý tộc của nuóc Pháp vào thế kỷ XVIII không chịu đóng thuế trong khi họ
vẫn thích thú với những cuộc phiêu lưu quân sự ở nước ngoại với nhiều
tốn kém. Họ đã thủ lợi với quan điểm này trong nhiều năm - cho đến khi
Cách mạng Pháp bất ngờ bỏ đi các đặc quyền của họ. Các giới tinh hoa
ngày nay có nguy cơ mắc một sai lầm tương tự.
Dè dặt điều mơ ước
Một phần cáo buộc cho các tai hoạ của khuôn khổ tự do
gắn liền với những người ủng hộ nó. Các nhà hoạch định chính sách đã
theo đuổi con đường hành động được nhiều giới trí thức ưa chuộng, trong
đó kể cả chúng ta: xây dựng các thể chế quốc tế để thúc đẩy hợp tác.
Nhưng họ đã làm như vậy theo một cách thiên vị - và phần lớn chúng ta
đánh giá thấp các nguy cơ đặt ra. Các doanh nghiệp tài chính và các tập
đoàn lớn được hưởng các đặc quyền ưu đãi trong khuôn khổ của các định
chế này, mà họ ít quan tâm đến các quyền lợi của các công nhân. Các quy
tắc của WTO đã nhấn mạnh sự mở rộng và thiếu khuyến khích các biện pháp
làm giảm tác động của toàn cầu hóa đối với những người bị thiệt thòi do
các biện pháp này, đặc biệt là những công nhân trong các khu vực sản
xuất cổ truyền ở các nước phát triển. Trong khi đó, các hiệp ước đầu tư
được ký kết trong những năm của thập niên 1990 đã đưa ra các quy định
rằng các luật sư của doanh nghiệp trục lợi với các doanh vụ quy mô làm
cho các người tiêu dùng phải chịu thiệt. Và khi Trung Quốc thao túng các
thoả uóc thương mại và tiền tệ để tạo bất lợi cho tầng lớp lao động
người Mỹ, Washington đã quyết định rằng các vấn đề khác trong quan hệ Mỹ
-Hoa quan trọng hơn và không phản ứng mạnh mẽ.
Tầng lớp lao động người Mỹ không nhất thiết đã hiểu
các chi tiết về các giao dịch thương mại toàn cầu, nhưng họ nhìn thấy
giới người Mỹ ưu tú và người dân ở Trung Quốc và ở các nước đang phát
triển khác trở nên giàu có nhanh hơn trong khi thu nhập của họ bị trì
trệ hoặc suy giảm. Không có gì là phải ngạc nhiên khi nhiều người trong
số họ đồng tình với Trump và với Bernie Sanders, ứng cử viên sơ bộ của
đảng Dân chủ, khi cả hai cho rằng trò chơi đã bị lũng đoạn.
Quá nhiều bút mực đã viết về các nguyên nhân nội tại
của cuộc nổi dậy của trào lưu dân túy: nạn phân biệt chủng tộc, sự thất
vọng ngày càng gia tăng đối với các chuyên gia, các chính sách kinh tế
bất ổn. Nhưng người ta ít quan tâm hơn cho hai yếu tố đóng góp xuất phát
từ chính bản thân của trật tự quốc tế. Việc đầu tiên là mất đi tình
liên kết quốc gia xảy ra vào cuối thời Chiến tranh Lạnh. Trong cuộc xung
đột đó, mối đe dọa của Liên Xô đã tạo ra một cảm giác gắn bó mạnh mẽ
chung không chỉ đối với các đồng minh của Washington mà còn cho các thể
chế đa phương. Các nhà tâm lý học xã hội đã chứng minh tầm quan trọng
của “tha nhân“ trong việc "tạo ra bản sắc" cho các cá nhân cũng như cho
các quốc gia: một ý thức rõ ràng về những người không thuộc nhóm của
mình làm cho mình cảm thấy gần gũi hơn với những người thuộc về nhóm của
mình. Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết đã xóa bỏ khái niệm "tha nhân" ra
khỏi trí tưởng tượng chính trị của người Mỹ và do đó giảm sự đoàn kết
xã hội Mỹ. Kết thúc của Chiến tranh Lạnh gây ra những khó khăn chính trị
đặc biệt cho Đảng Cộng hòa, từ lâu đã là một tiền đồn để chống Cộng.
Với sự sụp đổ của Liên Xô, các tầng lớp ưu tú của Washington dần dần
thay thế cho người Cộng sản như những con ngáo ộp của Đảng Cộng hòa. Chủ
nghĩa Trumpism là sự mở rộng hợp lý của sự phát triển đó.
Ở châu Âu, kết thúc của Chiến tranh Lạnh có hậu quả
cho một lý do liên hệ. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, các nhà lãnh đạo ở
Tây Âu liên tục tìm cách ngăn chặn sự thu hút của chủ nghĩa cộng sản và
chủ nghĩa xã hội ở trong nước. Sau năm 1989, không còn phải đối mặt với
những hạn chế đó, các chính phủ và các quan chức chính phủ ở Brussels
đã mở rộng thẩm quyền và phạm vi của cơ quan Liên Âu, ngay cả khi đối
đầu với một loạt các cuộc trưng cầu dân ý quốc gia mà nó thể hiện sự
phản đối với xu hướng đó và xem như là các dấu hiệu cảnh báo cho sự bất
mãn ngày càng gia tăng của tầng lớp lao động. Ở Đông Âu, trào lưu khác
chống Xô viết mạnh mẽ trong những năm của thập niên 1980 và 1990, nhưng
dường như đã bị xoá nhoà khi các ký ức về Chiến tranh Lạnh đã trở nên xa
mờ. Nếu không có bóng ma của chế độ độc tài theo chủ nghĩa cộng sản ám
ảnh xã hội của họ, người Đông Âu trở nên dễ bị cuốn theo trào lưu dân
túy về các hình thức chủ nghĩa phi dân chủ khác. Ở châu Âu, cũng như ở
Hoa Kỳ, sự biến mất của Liên Xô đã làm suy yếu tinh thần đoàn kết xã hội
và một ý thức chung của mục đích.
Lực lượng thứ hai khuấy động sự bất mãn cùng với
khuôn khổ tự do có thể được gọi là "vượt quá giới hạn của tinh thần đa
phương". Tinh thần tương thuộc đòi hỏi các quốc gia phải hạn chế quyền
tự trị để các thể chế như cơ quan LHQ và Ngân hàng Thế giới, tạo thuận
lội cho sự hợp tác và giải quyết các vấn đề đa phương. Nhưng khuynh
hướng tự nhiên của các thể chế này, giới lãnh đạo, giới hành chánh của
họ thực hiện công việc của mình bằng cách mở rộng thẩm quyền. Mỗi khi họ
làm như vậy, họ có thể chỉ ra một số lý do có vẻ giá trị thuần lý. Tuy
nhiên, ảnh hưởng tích lũy của việc mở rộng các thẩm quyền quốc tế như
vậy làm hạn chế quá mức về chủ quyền tối thượng và tạo cho mọi người ý
thức rằng các lực lượng của nước ngoài đang kiểm soát cuộc sống của họ.
Vì các thể chế đa phương này là xa rời và không còn dân chủ - mặc dù có
những lời lẻ biện hô của họ - kết quả là cảm giác xa lạ công khai, như
nhà khoa học chính trị Kathleen McNamara đã ghi nhận. Hiệu ứng kết hợp
nhau bất cứ lúc nào khi mà các thể chế đa phương đem lại các lợi ích cho
tầng lớp tinh hoa quốc tế và làm cho các giới khác phải gánh chịu phí
tổn, chuyện như họ thường làm.
Cập nhật hệ thống
Đảo lộn khuôn khổ tự do sẽ đòi hỏi phải chú ý đến
thực chất của vấn đề mà còn đến các nhận thức. Hoa Kỳ chỉ tạo những nỗ
lực yếu ớt để duy trì một cái gì đó như Ruggie đề cập về chủ nghĩa tự do
ràng buộc, và thậm chí những nỗ lực đó đã phần lớn thất bại. Đức, Đan
Mạch, và Thụy Điển đạt thành tựu tốt hơn, mặc dù hệ thống của họ cũng
đang chịu áp lực. Washington có một thành tích kém cỏi khi xây dựng nển
hành chính quan liêu có thể ăn sâu trong lòng xã hội, và hiển nhiên công
chúng Mỹ nghi ngờ những nỗ lực đó. Vì vậy, các quan chức Mỹ sẽ phải tập
trung vào các cải cách mà không đòi hỏi nhiều can thiệp từ trên đưa
xuống.
Để đạt được mục đích, Washington cần được hướng dẫn
bởi ba nguyên tắc. Thứ nhất, việc hội nhập toàn cầu phải song hành với
một loạt các chính sách quốc nội, mà nó cho phép tất cả các tầng lớp
kinh tế và xã hội chia sẻ mọi thành qủa của toàn cầu hoá theo cách mà
các cử tri thấy rõ. Thứ hai, việc hợp tác quốc tế phải cân bằng với các
lợi ích quốc gia để ngăn chặn tình trạng vượt quá giới hạn, đặc biệt là
khi cần sử dụng quân đội. Thứ ba, Washington nên nuôi dưỡng bản sắc độc
đáo của xã hội Mỹ và lich sử quốc gia. Điều đó sẽ đòi hỏi có các quốc
gia độc đoán và phi tự do khác. Đẩy mạnh sự chống đối của Hoa Kỳ về chủ
nghĩa phi tự do không có nghĩa là áp đặt một nền dân chủ bằng vũ lực,
nhưng nó đòi hỏi đôi khi có nhiều những lời chỉ trích cho các nước về
mặt ngoại giao hơn thí dụ như Trung Quốc hay Ả-rập Xê-út. Ví dụ, một vị
tổng thống sẵn sàng nói rõ rằng mặc dù Hoa Kỳ có thể có quyền lợi trong
việc hợp tác với các quốc gia phi dân chủ, nhưng điều này chỉ xác định
với các nước có nển dân chủ tự do và duy trì các mối quan hệ gần gũi
nhất với họ. Thực hiện đúng cách, loại hình về bản sắc khác có thể giúp
làm sáng tỏ bản sắc quốc gia của Mỹ và xây dựng tình đoàn kết. Nó có thể
đôi khi hạn chế các mối quan hệ thương mại. Tuy nhiên, một xã hội không
chỉ thuần là một nền kinh tế, và những lợi ích của sự đoàn kết xã hội
sẽ biện minh cho một chi phí kinh tế khiêm tốn.
Dù thích hay không, "Ưu tiên cho nước Mỹ" là một khẩu hiệu thu hút
Khai triển các chính sách nhằm thỏa mãn những nguyên
tắc này sẽ đòi hỏi canh tân và sáng tạo. Một số ý tưởng hứa hẹn bao gồm
các khoản thuế làm lợi cho các doanh nghiệp để họ đào tạo tại chổ cho
các công nhân khi bị mất việc và các khoản thuế thu nhập lảm lợi cho cá
nhân. Chính giới cấp tiến theo đuổi các chính sách như vậy trong quá
khứ, nhưng trong thời gian gần đây, họ thu hồi hoặc thỏa hiệp vì lợi ích
qua việc thông qua các thương thảo mậu mại; họ phải gia hạn các cam kết
với những lý tưởng đó. Các giới chức cũng nên yêu cầu là bất kỳ giao
dịch thương mại mới nào cũng phải song hành với các biện pháp thăng tiến
quốc nội để hỗ trợ những người mà họ không được hưởng lợi từ các giao
dịch này. Ít nhất, Quốc hội nên tránh việc giảm thuế lũy thoái. Ví dụ,
nếu chính quyền Trump và các đồng minh của Đảng Cộng Hoà trong Quốc Hội
quyết định áp đặt loại thuế điều chỉnh biên giới đối với hàng nhập khẩu,
thì thu nhập nhận được phải đem lại lợi ích cho giai cấp công nhân. Một
cách để thực hiện điều đó là phải tái phân phối doanh thu từ thuế tính
trên đầu người, dưới hình thức trả bằng chi phiếu cho tất cả các gia
đình; biện pháp này sẽ gia tăng của cải và tạo hỗ trợ chính trị cho sự
kết hợp giữa sự mở rộng và tái phân phối kinh tế. Một cách khác để mang
lại lợi ích cho giai cấp công nhân là khích lệ tạo việc làm bằng cách
giảm gánh nặng thuế lương phải trả của chủ lao động. Những ý tưởng như
vậy sẽ phải đối mặt với một cuộc chiến khó khăn trong môi trường chính
trị hiện tại của Hoa Kỳ, nhưng cần thiết phải xây dựng các kế hoạch ngay
bây giờ để khi các cơ hội chính trị đến, các nhà bảo vệ khuôn khổ tự do
sẽ sẵn sàng.
Nhiệm vụ càng khó khăn hơn sẽ là trình bày tự sự cho
cả nước, mà nó được các tầng lớp thượng lưu ủng hộ rộng rãi trên phương
diện ý thức hệ, về vấn đề "chúng ta là ai" – mà người ta xây dựng xung
quanh sự chống đối chủ nghĩa độc đoán và phi tự do. Trở ngại chính có lẽ
là các chính sách nhập cư, nơi mà sự căng thẳng giữa chủ nghĩa quốc tế
và tình liên đới quốc gia nổi lên rõ ràng nhất. Những người theo tinh
thần quốc tế lập luận (một cách đúng đắn) là rốt cuộc thì người nhập cư
cũng mang lại nhiều lợi ích hơn là phí tổn và khi những nguòi bản địa lo
ngại về những người tị nạn thường là dựa vào thành kiến hơn là thực tế.
Hoa Kỳ là một quốc gia của những người nhập cư và tiếp tục thu được
năng lưc và ý tưởng từ những người mới đến đầy tài năng.
Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều đồng ý rằng có một
số hạn chế về mức độ nhanh chóng của một quốc gia có thể tiếp thu người
nhập cư và điều này có nghĩa là cần phải có những quyết định cứng rắn về
tốc độ mà người có thể nhập cư và bao nhiêu nguồn lực cần được dành
riêng cho việc hội nhập. Không nên quá cố chấp để định mức độ nhập cư
với khả năng của người nhập cư trong việc đồng hoá họ và khả năng điều
chỉnh của xã hội. Những người ủng hộ một khuôn khổ tự do toàn cầu phải
tìm các cách cho sự nhất trí cao hơn của quốc gia về vấn đề này. Để có
được sự bền vững về mặt chính trị, những ý tưởng của họ sẽ phải tôn
trọng về tầm quan trọng của tình đoàn kết dân tộc.
Dù muốn hay không, trào lưu dân túy toàn cầu có một
hệ tư tưởng có thể thu hút và rõ nét, nó được xác định bởi lòng cương
nghị, chủ nghĩa dân tộc và tinh thần địa phương: "Nước Mỹ ưu tiên" là
một khẩu hiệu mạnh. Để đáp ứng, những người ủng hộ một khuôn khổ tự do
mở rộng phải đưa ra một giải pháp tương tự rõ ràng, mạch lạc, và khuôn
khổ này phải giải quyết, thay vì bỏ qua những vấn đề mà các tầng lớp lao
động quan tâm. Đối với đảng viên đảng Dân chủ, "đảng của công việc" sẽ
là một thương hiệu tốt hơn là "bên tăng phúc lợi chung trong khi bù đắp
cho những người thua lổ trong thương mại".
Nếu không có thay đổi táo bạo đối với các thông điệp
và phương sách của họ, các chính đảng lâu đời sẽ mờ nhạt dần. Một người
ngoài cuộc đã thâm nhập vào Đảng Cộng hòa; Các đảng viên Dân chủ đang
đứng ven bờ biển. Ở châu Âu, Đảng Lao động Anh đang bùng nổ và các đảng
Pháp có truyền thống nắm quyền đang tan rã. Để thích nghi, các đảng phái
lâu đời phải bắt đầu tạo khuôn khổ cho các lý tưởng của họ trong các
cách khác nhau. Như nhà tâm lý học xã hội Jonathan Haidt đã lập luận,
những người tiến bộ phải học cách nói về danh dự, lòng trung thành và
khuôn khổ cộng thêm sự bình đẳng và quyền lợi
Tuy nhiên, để làm xoa dịu khuôn khổ tự do và ngăn
chặn thất bại toàn bộ từ trong tay của những người chủ truong dân túy,
các đảng truyền thống phải làm nhiều hơn trong việc đổi thương hiệu và ý
tưởng của họ. Họ phải phát triển các chính sách có thực chất nhằm làm
cho tiến trình toàn cầu hóa phục vụ lợi ích của tầng lớp trung lưu và
lao động. Không có những thay đổi như vậy, khuôn khổ tự do toàn cầu sẽ
tàn lụn.
***
Jeff D. Colgan, Giáo sư Chính trị học tại Brown University. Tác phẩm mới nhất là Petro-Aggression: When Oil Causes War (2013).
Robert O. Keohane là Giáo sư Bang giao Quốc tế tại Princeton University, nổi danh với các tác phẩm After Hegemony: Cooperation and Discord in the World Political Economy (1984) and Power and Governance in a Partially Globalized World (2002), Power and Interdependence (2001) Designing Social Inquiry (1994).
Nguyên tác: The Liberal Order Is Rigged - Fix It Now or Watch It Wither, FOREIGN AFFAIRS, May/June, 2017
-https://vietbao.com/p112a269498/khuon-kho-tu-do-bi-lung-doan-can-cai-cach-ngay-hoac-nhin-no-suy-tan