Đa dạng sinh học chính là chim trời, cá nước, san hô ngoài biển,
cá sông, cá biển cùng động vật hoang dã, thực vật trong rừng, kể cả các khuẩn,
tảo, vi cơ thể trong đất, tóm lại mọi hình thức của sự sống muôn màu muôn vẻ .
Following
introduction in section 1 about the importance of biological diversity in this world,
highlighted by the United Nations by declaring 2010 as the International Year
of Biodiversity, section 2 discusses biodiversity of species, of ecosystems, of
genes. Section 3 deals about biodiversity in tropical forests. Roles of
biodiversity are in section 4: ecological, economical, social and spiritual.
Biodiversity is of great economic value, since it has the potential to
contribute in medicinal products, in essential oils derived from plants, in
genetic improvement. It contributes also to sustainable development including
watersheds, soil and coastal protection, climate and water regulation,
environmental stability and carbon sequestration. Biodiversity conservation is
discussed in section 5. Biodiversity and Buddhism are in section 6: various sutras
are cited to prone the real compassion with all beings animal or vegetal...The
law of causality taught that a behavior has a natural relationship to its
resulting consequences in the physical world. In Buddhism, all things are
interrelated/interconnected and do not have an autonomous existence, so the
health of the whole is inseparably linked with the health of the parts and vice
versa. By living simply one can be in harmony with other creatures and learn to
appreciate the interconnectedness of all that lives
*
1.
Nhập đề
Đa
dạng sinh học càng ngày càng được chú trọng trong lãnh vực môi trường, nhất là
từ khi có Đại Hội Toàn cầu về trái đất ở Rio (Ba Tây) năm 1992. Đại hội
này quy tụ các lãnh tụ toàn thế giới về các vấn đề đặt ra trong lãnh vực môi
trường trên hành tinh chúng ta đang ở và báo động về các nguy cơ hiểm hoạ đang
chờ đón nếu chúng ta lơ là về sự bảo vệ môi trường.Nhiều vấn đề như sưởi ấm
toàn cầu, lổ hổng ozôn, sự phá rừng xích đới, sự ô nhiễm không khí, mưa axít,
giảm đa dạng sinh học, khu vực đánh cá bị cạn kiệt, mực nước biển dâng cao,
v.v. là những vấn đề nhức nhối của nhân loại, nhất là khi áp lực dân số tăng mỗi
ngày làm diện tích sống của mỗi người càng bị thu hẹp lại. Riêng năm 2010, Liên
hiệp quốc chọn làm Năm quốc tế đa dạng sinh học với mục tiêu tăng cường
nhận thức của cộng đồng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học, chia sẻ thông
tin về những thành tựu trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học do cộng đồng
và Chính phủ thực hiện.
2.
Thế nào là đa dạng sinh học?
Đa
dạng sinh
học là toàn bộ các môi trường tự nhiên và mọi hình thức cuộc sống trong đó
có động vật, thực vật, khuẩn, vi khuẩn với mọi tương quan, tương thuộc giữa
chúng và các môi trường.Đời sống trên mặt đất có 3 mặt tương thuộc:
-đa
dạng các loài (kể cả loài người) .
Ngày
nay, người ta ước tính có đến 10 triệu loài đa tế bào và chỉ chừng 1.8 triệu là
được xác định .Ngoài biển thì san hô, cá biển, chim biển, thú biển, bò sát, động
vật đáy, động v ật phù du, rong biển, cỏ biển ..Trên cạn, thì động vật có vú,
loài chim, loài bò sát, thực vật thì ẩn hoa, hiển hoa, rong rêu v.v.Trong đất
cũng có nhiều động vật và vi cơ thể nhiều loài
-đa
dạng cá nhân (đa dạng gien) trong mỗi loài. Vài ví dụ:
Lúa
cũng có nhiều loài :
Vụ
chiêm em cấy lúa di,
Vụ
mùa lúa dé, sớm thì ba giăng
Thú
quê rau cá đã từng
Gạo
thơm cơm trắng chi bằng tám xoan
Cá
cũng có nhiều loài:
Nhà
tôi nghề giã nghề nông
Lặng thì tôm cá đầy trong đầy ngoài
Cá trắng cho chí cá khoai
Còn như cá lẹp, cá mai cũng nhiều.
Lặng thì tôm cá đầy trong đầy ngoài
Cá trắng cho chí cá khoai
Còn như cá lẹp, cá mai cũng nhiều.
Rau
cải cũng rất đa dạng như trong bài ca dao sau:
Ai
đâu mà chẳng biết ta
Ta ở Xóm Láng, vốn nhà trồng rau
Rau thơm, rau húng, rau mùi
Thì là, cải cúc, đủ loài hành hoa
Mồng tơi, mướp đắng, ớt cà
Bí đao đậu ván vốn nhà trồng nên
Ta ở Xóm Láng, vốn nhà trồng rau
Rau thơm, rau húng, rau mùi
Thì là, cải cúc, đủ loài hành hoa
Mồng tơi, mướp đắng, ớt cà
Bí đao đậu ván vốn nhà trồng nên
-đa
dạng môi trường sống: môi trường sống có thể là
cái
ao :
Ao thu lặng lẽ nước trong veo (Nguyễn Khuyến)
một
con sông :
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con
thuyền xuôi mái nước song song (Xuân Diệu)
một
ngọn đèo :
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ
cây chen lá lá chen hoa (Bà Huyện Thanh Quan)
Đó
là đa dạng về hệ sinh thái
Nói
cách khác, đa dạng sinh học là mức độ phong phú của tạo vật và là kết quả của
hơn hàng ngàn triệu năm, từ lúc Trái đất được thành hình đến nay.
Trong
văn thơ Việt, thực vật và động vật luôn luôn là những đề tài gửi gắm trong ca
dao cũng như trong các bài thơ .
Trong
bài thơ tả cảnh đồng quê Việt :
Gió
may nổi bờ tre buồn xao xác
Trên
ao bèo tàn lụi nước trong mây
Hoa mướp rụng
từng đoá vàng rải rác
Lũ chuồn
chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay
Ta
thấy nào là động vật (chuồn chuồn) với thực vật (mướp, tre, bèo) chan hoà
man mác trong bài
Ca
dao thường phảng phất nhiều thực vật:
Xăm
xăm bước tới vườn trầu
Hỏi
thăm lê, lựu, mãng cầu chín chưa ?
Ngó
lên đám bắp trổ cờ,
Đám dưa trổ
nụ, đám cà trổ bông
Đa
dạng sinh học cũng hiện diện trong lời kinh A Di Đà, với vô số loài
chim:
Lại
còn đây nữa, ông Xá-lỵ-phất, nước kia thường có đủ các giống chim, màu sắc lạ đẹp,
như chim bạch hạc, khổng tước, anh vũ, cùng chim xá-lỵ , ca-lăng-tần-già và
chim cộng mệnh. Các giống chim ấy, ngày đêm sáu thời, hót tiếng hoà nhã.
Trong
bản nhạc Nhớ mùa thu Hà Nội, có những câu:
Phố
xưa nhà cổ mái ngói thâm nâu
Hồ
Tây chiều thu, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi Màu sương thương nhớ
Ta
cũng thấy ngay thực vật (cây bàng, cây cơm nguội ..), động vật (sâm cầm), cùng
đứng chung trong bài hát .
Đa
dạng sinh học trong văn học Việt cũng nhan nhãn trong các bài hát như: hoa ngọc
lan, hoa tigôn, hoa cúc, hoa mai, hoa đào, hoa quỳnh v.v. Cây cũng vậy có mặt
trong ca dao, thơ, nhạc, từ cây cau, cây khế, cây xoài, cây nhãn đến bằng lăng.
Tóm lại, đa dạng sinh học chính là chim trời, cá nước, san hô ngoài biển, cá sông, cá biển cùng động vật hoang dã, thực vật trong rừng, kể cả các khuẩn, tảo, vi cơ thể trong đất, tóm lại mọi hình thức của sự sống muôn màu muôn vẻ .
3.Đa
dạng sinh học trong rừng nhiệt đới
Những
loại rừng ôn đới hay rừng thông phương Bắc không có nhiều loài thực vật trong
khí đó thì các rừng nhiệt đới có rất nhiều loài, đặc biệt là các vùng sau đây:
-Vùng
Amazon.
Rừng Amazone, rộng đến 7 triệu km2, xuyên qua nhiều xứ như Bresil, Perou,
Venezuela, Guyana, Surinam. Rừng rậm và chứa nhiều loài thực vật, động vật, côn
trùng, loài bò sát, chim muông. Trong rừng vùng Amazon có trên 3000 loài cây ăn
trái từ chuối, avoca, cam, chanh, bưởi, chưa kể đến cây lúa, khoai tây, bắp, riềng,
gừng, khoai môn, mía, cà phê, quế; còn chim muông, loài bò sát, động vật hoang
dã thì cũng rất nhiều. Sông Amazon của Brasil có chứa nhiều loại cá hơn tất cả
các sông ngòi Âu Châu.
Khu
vực này là quê hương của khoảng 2.5 triệu loài côn trùng, hàng chục nghìn loài
thực vật, và khoảng 2 000 loài chim cùng thú. Tới nay, ít nhất khoảng
40 000 loài thực vật, 3 000 loài cá, 1294 loài chim, 427 loài thú,
428 loài động vật lưỡng cư, và 378 loài bò sát đã được phân loại khoa học trong
khu vực này. Khoảng 20 % loài chim trên thế giới sống trong các khu rừng
nhiệt đới Amazon.
-Vùng
lưu vực sông Congo.
Lưu vực sông Congo bao trùm các xứ như Cameroun, Cộng Hoà Trung Phi, Congo
Brazzaville, Congo Kinshasha, Guinée Equatoriale, Gabon cũng chứa nhiều rừng và
đa dạng sinh học rất lớn.
-Vùng
Nam Phi
. Vùng Nam Phi châu với diện tích 1,1 triệu km2(110 triệu hecta)- ứng với
Bostwana, Lesotho, Mozambique, Liên Bang Nam Phi, tương ứng với 1% diện
tích đất lục địa của quả địa cầu- cũng có nhiều loài chim, cá, cây,
loài bò sát, động vật có vú.
-Vùng
New Guinea. Vùng Papua New Guinea cũng còn rất nhiều thực vật chưa ai
nghiên cứu . Trải dài từ các đảo Indonesia đến hải đảo Thái Bình dương xuyên
qua New Guinea.
Riêng
Việt Nam cũng là nơi hội lưu của ba luồng di cư sinh vật từ nhiều khu vực Nam
Hoa, Mã Lai, Ấn Độ nên thực vật cũng kế thừa cả ba luồng :
•
luồng thực vật miền núi Tây Bắc châu thổ sông Hồng có nhiều giống cây
như thảo mộc miền núi Himalaya hay Nam Hoa, rụng lá vào đông như các cây
thuộc họ Dẻ (Fagaceae), họ Thích (Aceraceae), họ Nhài (Oleaceae)
•
luồng thực vật mang các yếu tố Mã Lai-Indonesia bao gồm các cây thuộc họ
Dầu (Dipterocarpaceae) như chò chỉ, dầu song
nàng,
.
• luồng thực vật mang các yếu tố Ấn Độ-Miến Điện gồm những cây thuộc họ Bàng (Combretaceae) như chò xanh, chò nhai (Anogeissus tonkinensis) và một số loài thuộc chi Combretum họ Bằng Lăng (Lythraceae), họ Gạo (Bombacaceae ) rụng lá vào mùa khô.
• luồng thực vật mang các yếu tố Ấn Độ-Miến Điện gồm những cây thuộc họ Bàng (Combretaceae) như chò xanh, chò nhai (Anogeissus tonkinensis) và một số loài thuộc chi Combretum họ Bằng Lăng (Lythraceae), họ Gạo (Bombacaceae ) rụng lá vào mùa khô.
Riêng
về biển cũng có nhiều đa dạng sinh học với tôm, mực, ghẹ, ốc nhảy, trai, nghêu
lụa, cá ngựa, hải sâm với nhiều loài san hô thuộc 2 nhóm san hô cứng và san hô
mềm; có loài cá rạn san hô.
4.
Ich lợi của đa dạng sinh học
Đa
dạng sinh học có 3 vai trò quan trọng sau đây:
41. Vai trò sinh thái.
Ða dạng sinh học và biến đổi khí hậu có liên quan chặt chẽ và tương tác với
nhau. Với rừng rú được bảo tồn, sức khoẻ con người được tăng lên vì rừng toả ra
oxy qua hiện tượng quang hợp và hút bớt các khí độc do khói nhà máy, khói xe
hơi do hàng vạn chiếc suốt ngày đêm di chuyển phát ra. Đó là các khí nhà kiếng
(green house gas) làm đảo lộn khí hậu trái đất .
Lợi
ích gián tiếp của đa dạng sinh học là hỗ trợ đắc lực cho các hệ sinh thái, điều
hòa khí hậu, tạo ra ô-xy, giữ nguồn nước và cung cấp nước, chống xói mòn, bảo vệ
đất đai ở mọi nơi,giúp hạn chế biến đổi khí hậu. Rừng nhiệt đới Amazon là một
khu bảo tồn thiên nhiên trên thế giới. Đó là khu dự trữ sinh quyển (cái phổi)
cho loài người, nhờ vào sự hấp thụ CO 2 của cây cối rồi thải oxygen
ra không gian. Hơn 20% oxygen trên thế giới tiết ra từ rừng nhiệt đới Amazo.
42 .Vai trò kinh tế
như nguồn gen cho nông nghiệp, nguồn thuốc cho y tế, nguồn lương thực. Trước
kia, con người sử dụng các sản phẩm hoá học nhiều nhưng ngày nay, mới thấy hoá
học đưa đến những phản ứng phụ gây nguy hại cho sức khoẻ nên càng ngày nhân loại
chú trọng nhiều về sinh học (Bio). Các nhà nghiên cứu sàng lọc các hợp chất
thiên nhiên (các chất có hoạt tính sinh học, tinh dầu, hương liệu) từ tài
nguyên sinh vật trên đất liền, dưới biển và vi sinh vật để tổng hợp các chất có
giá trị kinh tế, khoa học cao đ ể sử dụng trong các ngành y dược, mỹ phẩm, công
nghiệp
Công
nghệ sinh học đang dần dà chiếm nhiều lãnh vực, từ trang điểm với các
công ty mỹ phẩm ngày nay sử dụng các tinh dầu thực vật để làm phấn, son, nước
hoa trong ngành biocosmetics, sinh vật chuyển đôi gen (OMG) với cà
chua, đậu nành, bắp với biotechnology đến cải thiện môi trường nước với bioremediation,
biofiltration v.v.. -thuốc thang (Đông y và Tây y )
Xưa
kia, ngành Đông Y chỉ dùng toàn thuốc nguồn gốc thực vật . Gừng, tỏi,
artichaut, lá dâm bụt, rau thơm v.v. đều sử dụng trị các chứng đau; ngày nay
Tây Y cũng sử dụng nghiên cứu thực vật để tìm ra các tinh chất trị bệnh. Rừng
cây là một nguồn cung cấp dược liệu quan trọng cho con người; nếu ta hủy hoại rừng,
vô hình chung nguồn thuốc chữa bệnh cũng mất luôn. Các chiết xuất từ nhiều cây
trong rừng giúp trị nhiều chứng bệnh. Vào trong tiệm thuốc Tây ngày nay, ta thấy
cũng có trưng bày các loại thuốc của nhiều hãng như Adrien Gagon, Jamieson
..của Canada, Vogel của Thụy Sĩ để trị cảm, cúm, dị ứng, ho khan v.v. bằng
các thực vật khác nhau. Năm 1983 không một hãng hay cơ quan nào của Hoa Kỳ làm
nghiên cứu về thảo dược mà ngày nay có hơn 100 hãng thuốc đã lên dự án thiết lập
nhiều chương trình nghiên về thảo dược như Merck, Abbott, Bristol-Myers
Squibb, Eli Lilly, Monsanto và Cơ Quan chống Ung Thư Hoa Kỳ (US National
Cancer Institute). Cơ quan này cho biết có hơn 3 000 loại cây dùng để chữa
trị ung thư trong đó 70% là dược thảo từ rừng nhiệt đới. Chưa kể đến còn nhiều
chất hóa học trong dược thảo chưa khám phá bởi con người để chữa trị những căn
bệnh hiểm nghèo như lao phổi (tuberculosis), viêm gan, HIV, AIDS, v.v….mà có thể
những hóa chất dược thảo này sẽ tìm được trong rừng Amazon chăng
Rừng
nhiệt đới là nhà thuốc cho thế giới . Nhờ đa dạng sinh học, nhất là thảo mộc
hoang dã trên núi, nên nhiều dược phẩm mới có khả năng được phát hiện qua các
khảo cứu các thảo mộc thiên nhiên trong rừng.. Nếu ta hủy hoại rừng, vô hình
chung tài sản gien của nhân loại bị phá vỡ luôn. Trong rừng nhiệt đới có vô vàn
cây cho thuốc, từ lá, rễ, trị nhiều chứng bệnh thuốc lợi tiểu, chống đau nhức,
trị kiết, thổ tả, mụt nhọt. Ở Bắc Mỹ 25% toa thuốc chế biến từ dược thảo. Vào
những năm 2000 thuốc tiêu thụ từ dược thảo lên đến 4.5 tỉ đô la. Ngày nay
trên toàn thế giới lưu lượng dược thảo được bán ra hơn 40 tỉ đô la hàng
năm chiết ra từ 90 loại cây rừng nhiệt đới. 25% các loại thuốc chống ung thư
ngày nay trích ra từ dược thảo vùng nhiệt đới.
-nguồn
gien cho cải tạo thực vật: Đa dạng sinh học càng nhiều thì qũy gien
càng phong phú và càng phong phú thì cơ hội lai tạo các giống mới kháng hạn,
kháng lạnh, kháng phèn, kháng mặn.. .càng dễ thành công . Đó là lý do Liên Hiệp
Quốc có Công Ước quốc tế về đa dạng sinh học.Nhiều giống cây, nhiều giống hoa
màu hoang dã nhưng lại chứa đựng một quỹ gen rất phong phú . Nhờ quỹ gen
đó mà có thể thay đổi hay cải thiện các giống hiện có, bằng cách lai giống, ghép
cây, để tạo ra các giống mới thích nghi với môi trường mới, kháng sâu hơn, giúp
cải thiện môi trường. Sự đa dạng sinh học là điều kiện cần thiết để có một quỹ
gen phong phú..
-lương
thực: Rừng cây cũng có tài nguyên lưong thực với măng tre, nấm, sim,
muồn
Ba
năm trấn thủ lưu đồn
Ngày
thì canh điếm, tối dồn việc quan
Chém
tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu
thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng
ăn măng trúc, măng mai
Những
giang cùng nứa lấy ai bạn cùng
Nước
giếng trong con cá nó vẫy vùng
43.
Vai trò xã hội và tâm linh.
Đa
dạng sinh học có giá trị thẩm mỹ, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục nâng cao tầm hiểu
biết của con người. Đa dạng sinh học với thảo nguyên, rừng dày, rừng thưa, rừng
ven sông, suối, ao hồ, biển giúp ngành du lịch nghỉ ngơi chưa kể đó cũng là chốn
tâm linh giúp lắng đọng, nội tâm yên ổn, giúp giảm stress vốn gây rất nhiều bệnh
thời đại ..
Rừng
giúp con người thư giãn, tìm lại sự im lặng, tĩnh mịch:
Ta
dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người
khôn người đến chốn lao xao .
Đa
dạng sinh học với rừng cây, ao hồ, sông suối, thác nước giúp con người
ngày nay tránh cảnh ồn ào , chen lấn giúp họ có những quãng ngày thanh thản,
tác động đến nội tâm.Thực thế, có ở trong cảnh phố phường chật hẹp người đông
đúc với tiếng động nhức tai điếc óc thì mới cảm nghiệm được sự yên tĩnh
êm đềm lắng đọng trong khu rừng, mới chiêm nghiệm trong thinh lặng và an
bình, suy tư trong tình trạng thần trí lắng đọng, và mở rộng tâm hồn lắng nghe
của chiêm nghiệm, của đời sống tâm linh.
Con
người tìm lại chốn tĩnh lặng, giúp tâm không còn vọng niệm, giúp tâm buông xả,
không phân biệt những cặp đối đãi như giàu/nghèo, sang/hèn, tốt/xấu v.v.
Tâm an vui tự tại, không dính mắc, tâm không vọng niệm, tâm buông xả
như bài thơ sau đây:
“Sống
không giận, không hờn, không oán trách
Sống
là động, nhưng lòng luôn bất động
Sống
là thương, nhưng lòng chẳng vấn vương
Sống
yên vui, danh lợi mãi coi thường
Tâm
bất biến, giữa dòng đời vạn biến.”
Trong
mọi xứ, tín ngưỡng dân gian xem cây chứa đựng những linh hồn, những bà tiên, những
bà phù thủy có phép màu nhiệm. Các thần thoại, các huyền thoại, các phônklo đều
hàm ẩn những điều ấy.
Người
Việt thuở xưa vì không chế ngự được thiên nhiên: gió, mưa, lụt lội, sấm sét, thú
dữ nên tôn thờ mọi thần linh: thần lửa, thần mưa, thần gió, thần cây, thần đá
và mọi vật linh như chim (trĩ, công..). Thần linh có mặt trong rừng, trên cây,
khúc sông, thác nước…cho nên thường có những lễ hội cầu trời, cầu thần linh phù
trợ cho con người. Ở nông thôn Việt Nam, ngưòi dân quê xem cây cổ thụ
như chứa một cái gì linh thiêng, có thần cây tàng ẩn trong đó nên thường đem lễ
vật, que hương ra cúng bái. Cây thông tượng trưng cho người quân tử:
Kiếp
sau xin chớ làm người
Làm
cây thông đứng giữa trời mà reo…
5.
Bảo tồn đa dạng sinh học.
Muốn bảo tồn đa dạng sinh
học, các nước thường thiết lập vườn quốc gia (national park) khu bảo tồn thiên
nhiên (nature reserve), khu lâm sản nghiên cứu thí nghiệm, các vườn sưu tập cây
để cho hột (arboretum). Nhiều Trung Tâm Khảo Cứu trên thế giới đã phải sưu tập
rất nhiều hạt giống cuả mọi giống lúa, mọi giống đậu, khoai tây, bắp…và tồn trữ
trong các kho lạnh để cho khỏi mất tỷ lệ nẩy mầm trong hàng chục năm.Thực vậy,
hiện nay trên thế giới có quãng trên 10 Trung Tâm quốc tế, rải rác trên toàn thế
giới, chuyên có một bộ phận lo sưu tập và bảo tồn quỹ gien các loài. Nào là
CIMMYT ở Mexico ,đặc trách lúa mì và bắp, y như tên gọi Centro Internacional
Mejoramiento Maiz y Trigo, nào là CIAT (Centro Internacional Agricultura
Tropicale) ở Colombia lo sưu tập các loại đậu, nào là ICRISAT ở Ấn Độ
(International Crops Research Institute SemiArid Tropics) sưu tập đậu phụng
và đậu triều tức Cajanus indicus, nào là IRRI ở Phi luật tân (International
Rice Research Institute) chuyên về lúa, từ lúa ruộng đến lúa rẩy, từ lúa tẻ
đến lúa nếp, lúa nổi đến lúa chịu phèn, kháng mặn, nào là CIP (Centro
Internacional de la Papa) ở Pérou lo về khoai tâỵ Từ 1968, Viện IRRI
đã du nhập và tồn trữ trong kho lạnh gần 70.000 giống lúa (trong đó 63000 ở Á
Châu). Muốn cho an toàn hơn, cứ mỗi giống lúa, họ gửi một nửa sang Mỹ, hiện tồn
trữ trong kho lạnh ở Colorado (U .S. National Seed Storage Laboratory ở Fort
Collins). Nền tảng cuả cuộc cách mạng xanh hiện nay là nhờ vào quỹ gien trên.
Các nhà bác học đã xử dụng quỹ gien để tạo giống mới kháng hạn hơn, cao năng
hơn, kháng sâu bệnh hơn. Căn bản di truyền trong sự cải thiện thực vật là nằm
trong các gen mà một khi các gien bị mất đi (do phá rừng, do đô thị hoá) thì
các nhà di truyền học không tìm đâu ra các gien để còn tiếp tục lai giống.
Tóm
lại, bảo vệ đa dạng sinh học chính là bảo vệ con người. Vì sao ? Con ngưòi
nhờ rừng vì không rừng thì không có nước. Không rừng thì đất cằn cỗi mà đất cằn
thì không sản xuất được lương thực, gây nạn đói kém. Không rừng thì lụt lội, chết
người, mất của.. Con người nhờ gen đa loại để cải thiện giống, giúp an ninh
lương thực trong bối cảnh ng ười càng ngày càng đông.
6.
Phật giáo và đa dạng sinh học.
Trong
ngũ giới của Phật giáo, điều khoản thứ nhất là cấm sát sanh,
nghĩa là cấm gây nên cái chết cho bản thân và tha nhân. Nền đạo đức của Phật
giáo là lòng thương yêu thực sự đối với mọi sinh linh. Như vậy cũng có nghĩa là
không săn bắn hoang thú.. Như vậy, ta phải bảo tồn rừng rú vì nếu không có rừng
thì loài thú hoang, chim muông sẽ không nơi trú ẩn .Tục ngữ ta cũng có nói đến
hai tội lớn trong môi trường : đó là Nhất phá sơn lâm, nhì đâm Hà Bá
.
Trong kinh Địa Tạng, phẩm thứ tư, Nghiệp cảm của chúng sanh, có
đoạn Đức Phật khuyên như sau:
Này
bốn ông Thiên Vương !
Nếu
gặp kẻ sát hại loài sinh vật, thời dạy rõ quả báo vì ương lụy đời trước mà phải
bị chết yểu.
Nếu
gặp kẻ buông lung săn bắn thời ngài dạy rõ quả báo kinh hãi điên cuồng mất
mạng.
Nếu
gặp kẻ đốt núi rừng cây cỏ thời ngài dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết.
Nếu
gặp kẻ dùng lưới bắt chim non thời ngài dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa.
Nếu
gặp kẻ dùng nước sôi hay lửa, chém chặt, giết hại sanh vật thời ngài dạy rõ quả
báo phải luân hồi thường mạng lẫn nhau.
Trong
kinh Pháp Cú là kinh nhật tụng của Phật giáo Tiểu thừa, phẩm Phật đà,
ta bắt gặp các câu:
Trong
cơn nguy khốn bàng hoàng
Con
người tìm trú dưới hàng cây thiêng
Hoặc
vào đền miếu, chùa chiền
Hoặc
lên đồi núi, hoặc miền rừng hoang
Như
vậy cũng đủ nói lên vai trò của rừng trong tâm linh. Đức Phật Thích ca có những
lời nhắn nhủ ghi lại trong kinh Pháp Cú, phẩm A La Hán:
Khả
ái thay núi rừng
Chỗ
người phàm không ưa
Người
li tham ưa thích
Vì
không tìm dục lạc
Trong
cuộc sống đầy biến động, ta hãy tạo cho mình một niềm tin và một tâm bình an,
buông xả .
Theo
thuyết tương tức, tương nhập, trùng trùng duyên khởi thì mọi việc đều
liên quan đến nhau: rừng cây tác động đến nước, nước tác động lên mực nước biển
dâng, ảnh hưởng đến các vùng đất thấp duyên hải, ảnh hưởng đến lương thực
v.v.nói cách khác, cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không..
Thân thể bao gồm bốn yếu tố: đất, nước, gió, lửa. Khi chúng kết hợp và tạo
thành cơ thể, ta gọi chúng là đàn ông, đàn bà, cho chúng một cái tên để có thể
dễ dàng nhận ra chúng, nhưng thực con người chỉ vay mượn các yếu tố trên để sống
còn, còn mượn thì còn trả; hết mượn, thì chết . Cũng như thế, Trái Đất cũng gồm
bốn Tứ Đại là đất, nước, gió, lửa. Bốn yếu tố này cũng tương quan, tương thuộc:
vấn đề rừng ngập mặn, rừng đầu nguồn, dân số đông, khí nhà kiếng, an ninh lương
thực v.v. đều là một vì cái này ảnh hưởng đến cái kia .Do đó, nếu nước bị ô nhiễm,
nếu không khí bị ô nhiễm, nếu phá rừng ngập mặn, phá rừng đầu nguồn v.v, thì
con người đã tự huỷ hoại mình! Nói khác đi, hiểu rõ thiên nhiên ta sẽ hiểu
rõ giáo pháp và hiểu rõ giáo pháp ta sẽ hiểu rõ thiên nhiên. Như vậy, phải vứt
bỏ khái niệm về ‘ngã’ vì con người nhờ không khí để thở, nhờ nước để uống,
nhờ rừng mới có dòng nước.
Con
người mà còn tự ngã là còn đau khổ .Căn bản của những lời dạy của Đức Phật
là hiểu rõ tự ngã chỉ là trống không. Không còn dính mắc vào tự ngã, vào hạnh
phúc thì sẽ có hạnh phúc thật sự. Hãy tập xả bỏ một cách tự nhiên, không cần
tranh đấu gay go, chỉ đơn thuần xả bỏ, sự vật thế nào thì cứ để nó thế đó —
không nắm giữ, không dính mắc, tự do giải thoát. Khi hiểu rõ vô ngã thì gánh nặng
của cuộc sống sẽ được bỏ xuống, sẽ an lạc với mọi sự. Đúng như trong câu thơ của
Cung Oán ngâm khúc:
“Cái
thân ngoại vật là tiên trên đời”
7.
Kết luận.
Như
vậy, đa dạng sinh học với sinh vật -động vật và thực vật- từ trên cạn đến dưới
nước đều có vai trò to lớn và đạo Phật qua điều răn trong ngũ giới đã khuyến
cáo sự đa dạng sinh học. Trong khi đó thì nạn phá rừng vẫn hoành hoành, phá hủy
tài nguyên sinh học và sự ác dưới nhiều hình thức khác nhau vẫn
đang góp phần phi nhân hóa con người bằng cách làm giảm thiểu cảm thức về nhân
tính nơi những cá nhân và trong các cộng đồng. Tình trạng bi đát này mời gọi mọi
người trên hành tinh Trái Đất này chung sức để vạch trần những mối đe dọa chống
lại sự sống con người và để thức tỉnh lương tâm đạo đức của mọi công dân các
tín đồ, tạo nên sự phục hưng tinh thần và đạo đức của các cá nhân lẫn xã hội để
họ có thể là những nghệ nhân thực sự xây dựng hòa bình, yêu thương, bảo vệ và
phát triển sự sống con người trong mọi chiều kích. Chợt nhớ về bài thơ dài của
tác giả đoạt giải Nobel 1974 Harry Martinson, một “sử thi” mang nội dung
“khoa học giả tưởng”. Thiên tai không giết nổi Trái Đất, thì nhân tai đã giết:
Ta
được chở che khỏi bất cứ điều chi:
tàn phá, hỏa tai, bão bùng, băng giá,
hay bất cứ điều gì óc ta hình dung được -
nhưng chẳng được chở che khỏi chính loài người.”
tàn phá, hỏa tai, bão bùng, băng giá,
hay bất cứ điều gì óc ta hình dung được -
nhưng chẳng được chở che khỏi chính loài người.”
Thái
Công Tụng